Thứ Năm, 15 tháng 8, 2019

Phân tích nội dung bài thơ Thu Điếu của Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến là người có cốt cách thanh cao và giàu lòng yêu nước, ông một lòng không hợp tác với kẻ thù. Ông được mệnh danh là “nhà thơ của dân tình, làng cảnh Việt Nam”. Ông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm thơ hay và đặc biệt là chùm ba bài thơ thu điển hình cho làng quê, phong cảnh Việt Nam. Trong đó nổi bật hơn cả là bài Câu cá mùa thu.

Nếu như ở bài Thu vịnh cảnh thu được đón nhận từ cao xa rồi mới đến gần thì bài Câu cá mùa thu khung cảnh thiên nhiên mùa thu lại được đón nhận ở một chiều kích khác: từ gần rồi tiến ra cao xa và từ cao xa trở về gần. Khung cảnh được mở ra với nhiều chiều hướng vô cùng sinh động.


Cảnh thu được mở ra với hình ảnh không gian hết sức trong trẻo:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Không khí mùa thu được gợi nên từ sự dịu nhẹ, nguyên sơ nhất của cảnh vật với làn nước trong veo, không một gợn đục. Mùa hè đã đi qua, những cơn mưa lớn với dòng nước đỏ đục đã không còn thay vào đó là cái thanh tĩnh, trong trẻo của làn nước, của cảnh vật. Trong không gian nhỏ hẹp ấy là hình ảnh của chiếc thuyền câu nhưng nó không hề lọt thỏm giữa không gian thiên nhiên mà lại rất hài hòa, cân xứng. Tác giả vẽ ra khung cảnh tưởng như đối lập ao thu – thuyền câu, nhưng kì thực chúng lại hòa quyện với nhau đến kì lạ. Bởi vật tác giả chọn là ao thu chứ không phải hồ thu – gợi cảm giác rộng lớn, choáng ngợp. Ao thu ấy khi có thuyền câu bên cạnh trở nên hài hòa, cân xứng và đậm chất khung cảnh làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Hai câu thơ đầu gieo vần eo nhưng không hề gợi lên cảm giác eo hẹp, nhỏ bé, tù túng mà ngược lại gợi nên cái nhỏ nhắn, thanh thoát của cảnh vật.

Bức tranh thu tiếp tục được Nguyễn Khuyến phác họa ở cặp câu thơ tiếp theo:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Những đường nét của khung cảnh cũng hết sức mảnh mai với sóng hơi gợn tí, lá khẽ đưa vèo, dường như mọi chuyển động đều vô cùng nhẹ nhàng, thanh thoát. Vận dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh Nguyễn Khuyến đã làm nổi bật sự tĩnh lặng tuyệt đối của không gian, của cảnh vật. Phải là không gian vô cùng yên tĩnh thì thi nhân mới có thể cảm nhận tiếng động thật khẽ, thật êm của cảnh vật, dù là sóng có gợn hay chiếc lá khẽ đưa, bằng giác quan tinh tế, nhạy cảm Nguyễn Khuyến đã nắm trọn từng khoảnh khắc của thiên nhiên. Sắc vàng nếu như ở những bài thơ khác chính là sắc màu chủ đạo, là điểm nhấn để gợi nhắc mùa thu thì trong câu thơ của Nguyễn Khuyến sắc vàng ấy cũng như bao sắc màu khác trong bức tranh: xanh của trời, trong veo của nước,… nó chỉ góp phần tạo nên đường nét hài hòa cho bức tranh, tuyệt nhiên không gợi cảm giác buồn bã của tâm trạng, hay héo úa của cảnh vật. Không chỉ vậy, cái hồn dân dã, vẻ đẹp mùa thu của làng quê Bắc Bộ còn đường gợi lên từ những ngõ trúc quanh co:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Không gian được mở rộng ở chiều cao, tác giả hướng ánh mắt lên bầu trời để cảm nhận được cái “xanh ngắt” của bầu trời, và rất tự nhiên thu tầm nhìn về với ngõ trúc qanh co. Không gian mùa thu vô cùng tĩnh lặng. Mọi chuyển động đều quá nhẹ nhàng, êm ái không đủ để gợi nên âm thanh, duy chỉ có tiếng động của tiếng cá đớp mồi: “Cá đâu khẽ động dưới chân bèo”. Nhưng cái động đó kết hợp với từ “khẽ” lại chỉ càng nhấn mạnh, tô đậm hơn cái yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật. Với nghệ thuật lấy động tả tĩnh, Nguyễn Khuyến đã cho thấy cái thanh tĩnh tuyệt đối của làng quê Việt Nam trong cảnh thu thanh bình, dịu nhẹ.

Bài thơ có nhan đề là Câu cá mùa thu, nói về chuyện câu cá mà thực lại không phải vậy. Mượn chuyện câu cá để cảm nhận hết trời thu, cảnh thu vào cõi lòng mình. Hẳn Nguyễn Khuyến phải có tâm hồn thanh tĩnh đến tuyệt đối mới có thể có nhận đầy đủ vẻ đẹp của mùa thu: trong veo, cái hơi gợn tí của nước, độ rơi khẽ khàng của lá. Đặc biệt sự tĩnh lặng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên một cách sâu sắc từ tiếng động duy nhất trong bài thơ là tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Sự tĩnh lặng trong cảnh vật gợi cho người đọc cảm nhận về sự cô đơn, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ. Trong bài các gam màu lạnh xuất hiện nhiều: trong veo, xanh ngắt,… dường như cái lạnh của thu thấm vào tâm hồn nhà thơ hay chính tâm hồn cô đơn của tác giả lan tỏa sang cảnh vật. Đặt trong bối cảnh đất nước đầy biến thiên lúc bấy giờ, có thể thấy bài thơ thể hiện tâm trạng đau buồn của Nguyễn Khuyến trước hiện tình đất nước đầy đau thương.

Bài thơ thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Khuyến. Tiếng Việt trong sáng, giản dị nhưng lại diễn tả được tất cả nhưng gì tinh tế, đẹp đẽ nhất của cảnh vật, diễn tả được tâm trạng và tấm lòng của nhà thơ. Gieo vần “eo” – tử vận tài tình góp phần miêu tả không gian nhỏ hẹp và tâm trạng đầy uẩn khúc của tác giả. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh gợi lên cái tĩnh lặng tuyệt đối của thiên nhiên.

Bài thơ Câu cá mùa thu với ngôn ngữ bậc thầy không chỉ cho người đọc thấy tài năng của Nguyễn Khuyến trong việc dùng từ. Mà đằng sâu đó ta còn cảm nhận được một tâm hồn gắn bó tha thiết với thiên nhiên, đất nước, tấm lòng yêu nước thầm lặng nhưng không kém phần sâu nặng.

Đọc hiểu tác phẩm Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng

I/ Tác giả - Tác phẩm:

1.Tác giả:

- ( 1918-1982) , tên khai sinh là Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở thành phố Nam Định.

- Ông sinh ra trong một gia đình nghèo. Người cha có thời gian làm cai đề lao, sau thất nghiệp sống nghèo túng bất đắc trí, mẹ dịu hiền,tần tảo và rất thương con.

- Năm 1934, Nguyên Hồng phải ra Hải Phòng dạy học tư lén lút ở xóm cấm. Nguyên Hồng viết văn sớm. Những tác phẩm đầu tiên của ông hướng về những con người cùng khổ nhất trong xã hội thành thị Việt Nam đương thời.Nguyên Hồng dõng dạc bênh vực và khẳng định phẩm chất tinh thần của họ.

- Trong thế giới nhân vật của Nguyên Hồng nổi bật lên là hình ảnh phụ nữ và trẻ em.Ông thông cảm sâu xa và có quan điểm tiến bộ trong việc thể hiện nỗi đau khổ và khát vọng của người phụ nữ.

- Gần năm chục năm gắn bó nghệ thuật bền bỉ, Nguyên Hồng có một vị trí quan trọng trong văn học Việt Nam hiện đại.Ông xứng đáng được coi là nhà văn chân chính của những người khốn khổ. Một tình cảm nhân đạo thiết tha đối với quần chúng lao động nghèo thấm đượm trong toàn bộ sáng tác của nhà văn.

2.Tác phẩm:

-1938, khi ông vừa tròn 20 tuổi. Đây là tác phẩm thứ hai của ông.

-“ Trong lòng mẹ” là chương 4 của hồi kí “ Những ngày thơ ấu”.

-Cảm xúc bao trùm: Nỗi đau bị sỉ nhục, nỗi buồn cô đơn và lòng thương nhớ mẹ, kính yêu mẹ của một đứa bé mồ côi bố sau một thời gian dài xa cách mẹ rồi được gặp lại mẹ.


3.Tóm tắt văn bản tự sự Trong lòng mẹ:

- Chú bé Hồng có một tuổi thơ đầy bất hạnh: bố chết sớm vì nghiện ngập, mẹ vì cảnh cùng túng quá phải bỏ con đi tha hương cầu thực, chú sống với bà cô cay nghiệt.
- Một hôm, bà cô gọi Hồng đến và hỏi có muốn vào Thanh Hoá với mẹ không. Nhận ra vẻ mặt rất kịch và tâm địa độc ác của bà cô, Hồng nén lại niềm thương nhớ mẹ và trả lời không muốn vào.
- Nhưng bà cô vẫn cố tình kể chuyện mẹ Hồng khốn khổ, đã có con với người khác làm cho Hồng đau đớn, thương mẹ và căm phẫn những cổ tục đã đầy đoạ mẹ mình.
- Gần đến ngày giỗ bố, trên đường đi học về, Hồng thấy bóng người ngồi trên xe kéo giống mẹ. Chú đã đuổi theo và khi nhận ra mẹ, Hồng đã oà khóc nức nở.
- Hồng cảm thấy sung sướng và hạnh phúc vô cùng khi được ở trong lòng mẹ. Hồng thấy mẹ vẫn đẹp như ngày nào. Chú đã quên hết mọi lời xúc xiểm của bà cô.

4.Nhan đề văn bản “Trong lòng mẹ”:

- Tên văn bản trước hết có ý nghĩa tả thực, gắn với một sự việc cụ thể: Hồng được gặp mẹ, được ngồi trong lòng mẹ, được mẹ yêu thương, âu yếm.
- Song nhan đề văn bản còn mang ý nghĩa tượng trưng: “Trong lòng mẹ” cũng là trong tình thương của mẹ.
- Từ nhan đề văn bản, người đọc đã phần nào hiểu được tình yêu thương mẹ tha thiết, sự khao khát được sống trong tình mẹ của chú bé Hồng, một chú bé có tuổi thơ đầy cay đắng.

II/ Kiến thức cơ bản:

1.Nhân vật người cô:

- Người cô của bé Hồng đại diện cho tầng lớp tiểu tư sản thị dân,sống trong xã hội xưa nhỏ nhen, ích kỷ, giả dối và độc ác.

-Gần đến ngày giỗ đầu của thầy bé Hồng, người cô gọi bé Hồng đến và cười hỏi: “Mày có muốn vào Thanh Hoá chơi với mẹ mày không?”Bà ta làm ra vẻ quan tâm đến chú, nhưng bé Hồng đã nhận ra ý nghĩ cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của người cô.Bé Hồng biết rõ nhắc đến mẹ, người cô ấy chỉ cố ý gieo giắt vào đầu óc chú những hoài nghi để chú khinh nghiệt và ruồng rẫy mẹ.

- Bằng giọng nói ngọt ngào, giả dối, người cô kể dạo này mẹ bé Hồng “phát tài”, dụ bé Hồng vào thăm “ em bé”. Bà ta cố ngân dài ra thật ngọt, thật rõ hai tiếng “em bé” như để bé Hồng phải nhớ rằng mẹ của chú là người phụ nữ chưa đoạn tang chồng mà đã có con với người khác.

-Dường như chưa đủ, người cô lại “tươi cười” kể cho chú nghe tình cảnh túng quẫn,hình ảnh gầy guộc,rách rưới của người mẹ khiến bé Hồng nghẹn họng “khóc không ra tiếng”.

=>Nhân vật người cô được thể hiện khá sắc sảo, sinh động.Bà ta chẳng những tiêu biểu cho cái thành kiến cổ hủ, phi nhân đạo của xã hội đó mà còn là người đàn bà có tâm địa đen tối khi cố ý khắc sâu vào nỗi đau trong tâm hồn nhạy cảm của đứa cháu mồ côi, cố ý gieo vào lòng nó thái độ khinh miệt ruồng rẫy đối với người mẹ mà nó vô vàn yêu thương.

2.Nhân vật bé Hồng:

a. Bé Hồng, một em bé chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh:

- Tuổi thơ của Hồng bất hạnh, mồ côi cha, mẹ chú bắt đắc dĩ phải tha hương cầu thực. Chú sống trong sự thiếu thốn tình cảm và không có sự chăm chút, che chở của cha mẹ.

- Đáng thương thêm, chú phải sống với người cô cay nghiệt,hẹp bụng. Người cô ấy luôn gây tổn thương cho chú bằng cách gièm pha, nói xấu mẹ chú, tìm cách để chú ruồng rẫy, khinh miệt mẹ mình.  Người cô này còn thiếu tử tế ở chỗ luôn vờ quan tâm hỏi han về mẹ Hồng, để gieo rắc sự hoài nghi của Hồng với mẹ.

- Trong hoàn cảnh ấy, Hồng đã phải gắng sức chịu đựng, kìm nén. Song nỗi đau thương cho mình và cho mẹ vượt quá sự chịu đựng của đứa trẻ,chú đã phải khóc rất nhiều, nước mắt ngậm ngùi của đứa trẻ thầm vụng tủi cực“nước mắt ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa, đầm đìa ở cằm và ở cổ”.

b. Bé Hồng – một tâm hồn, một sức sống:

* Bé Hồng, một trái tim thiết tha yêu thương:  (Trong cuộc nói chuyện với người cô)

- Sống với người cô luôn ghét mẹ mình, sống trong sự gièm pha nói xấu, bé Hồng không vì thế mà không còn yêu thương mẹ. Chú đã muốn nói có ngay sau khi bà cô hỏi có muốn vào Thanh Hóa thăm mẹ không; rồi chú nhận ra ngay ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt của người cô nên chú cúi đầu không đáp. Nhưng lại không muốn tình thương yêu và lòng kính mến mẹ bị “những rắp tâm tanh bẩn” xâm phạm đến nên chú cố cười và đáp lại một cách rất tự tin: “Không!Cháu không muốn vào.Cuối năm thế nào mợ cháu cũng về”.

- Sau lời hỏi thứ hai của người cô, lòng chú bé càng thắt lại, khóe mắt đã cay cay.

 -Khi bà cô ngân dài hai tiếng “em bé”, thì nỗi đau đớn,phẫn uất ở chú bé không còn nén nổi, nước mắt chú bé”ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và ở cổ”.Không phải vì bé Hồng đau đớn tủi cực vì mẹ chú làm điều xấu xa mà chỉ vì thương mẹ và căm tức sao mẹ lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà phải sinh nở một cách giấu giếm.Bé Hồng chẳng những không kết án mẹ vì đẻ em bé khi chưa đoạn tang chồng mà trái lại chú lại càng thương mẹ hơn. Chú cố kìm nén nỗi đau xót, tức tưởi đang dâng lên trong lòng để hỏi lại bằng cách “cười dài trong tiếng khóc”

- Tâm trạng đau đớn, uất ức của chú bé dâng đến cực điểm khi nghe người cô cứ tươi cười kể về tình cảnh tội nghiệp của mẹ mình.

- Tình yêu thương mẹ của bé Hồng đặc biệt vì nó luôn bị thử thách trong cảnh ngộ éo le. Nó giản dị, chân thành, hầu như không vì mong được đền đáp: “Mặc dầu non một năm ròng mẹ tôi không gửi cho tôi lấy một lá thư, nhắn người thăm tôi lấy một lời và gửi cho tôi lấy một đồng quà”. Và cũng vì thương mẹ mà chú bé căm ghét những hủ tục phong kiến đã đọa đày mẹ :“Giá những cổ tục đã đày đoạ mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh,đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn,mà nhai,mà nghiền cho kì nát vụn mới thôi”. Câu văn với phép so sánh đặc sắc, bằng những hình ảnh cụ thể, nhịp văn gấp gáp, dồn dập đã thể hiện sự phản kháng quyết liệt và cũng rất hồn nhiên, trẻ con của chú bé Hồng. Sự căm tức dữ dội ấy chính là biểu hiện đầy đủ của tình yêu thương mẹ tha thiết.

* Bé Hồng – ngọn lửa không khi nào tắt đi trong trái tim khát khao hạnh phúc bên mẹ hiền :(Trong lòng mẹ)

- Tình cảm của bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh không chỉ là tình thương mà còn được thể hiện sâu sắc ở cảm giác sung sướng cực điểm khi bé gặp mẹ và sống trong lòng mẹ

-Trên đường đi học về,thoáng thấy bóng người ngồi trên xe kéo giống mẹ mình, bé Hồng cuống quýt đuổi theo và bối rối “Mợ ơi!Mợ ơi!Mợ ơi!....” Điều đó cho thấy hình ảnh người mẹ luôn luôn thường trực trái tim chú bé. Chú bé lúc nào cũng nhớ mong và yêu thương mẹ vô cùng. Trong bé Hồng, cảm giác khi nếu người quay lại ấy là người khác thì thật là điều tủi cực ghê gớm cho chú bé “khác gì cái ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa xa mạc”.Nỗi khắc khoải mong mẹ đến cháy ruột của chú bé đã được thể hiện thật thấm thía, xúc động bằng hình ảnh so sánh đặc sắc này.

-Chú bé thở hồng hộc, chán đẫm mồ hôi, khi trèo lên xe “rúi cả chân lại” biết bao hồi hộp, sung sướng, đau khổ toát lên từ những cử chỉ cuống quýt ấy. Và khi được mẹ kéo tay và xoa đầu hỏi thì chú “oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Dường như bao nhiêu sầu khổ dồn nén trong suốt thời gian xa mẹ dài đằng đẵng lúc này bỗng vỡ oà.Tiếng khóc của chú bé là tiếng khóc dỗi hờn và hạnh phúc, tức tưởi và mãn nguyện của xa cách, mong nhớ.

- Ngồi trong lòng mẹ, chú hạnh phúc đắm mình trong tình mẫu tử. Chú thấy mẹ vẫn đẹp như thuở nào “vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn làm nổi bật màu hồng của hai gò má”.Chú cũng cảm nhận được niềm hạnh phúc bên con của người mẹ.

- Chú bé cảm thấy ngây ngất sung sướng khi được sà vào lòng mẹ,cảm giác mà chú đã mất từ lâu: “Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi,đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi,tôi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt”.Bé Hồng còn cảm nhận thấm thía hơi thở vô cùng thân thiết: “Hơi quần áo của mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lại thường”.

- Kỉ niệm ngọt ngào làm chú sung sướng đến nghẹn ngào: “Phải bé lạị và lăn vào lòng một người mẹ,áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”.

- Lúc ấy, bé Hồng như quên đi tất cả những cay độc, buồn tủi“bên tai tôi ù đi, lời bà cô chìm xuống,tôi không mảy may nghĩ ngợi gì nữa…”. Nghĩa là hạnh phúc lớn lao, choáng ngập niềm sung sướng được ở bên mẹ tràn ngập trong bé Hồng, không một rắp tâm tanh bẩn nào xâm phạm được, nó cũng như một liều thuốc hữu hiệu đã nhanh chóng chữa lành mọi tổn thương trong em bấy lâu nay, đó chính là hanh phúc lớn lao của tình mẫu tử thiêng liêng và cao cả.

Bé Hồng là hình ảnh một tuổi thơ nhiều bất hạnh nhưng vẫn tỏa sáng một trái tim thương yêu sâu sắc, để lại ấn tượng xúc động trong lòng người đọc.

Thứ Tư, 14 tháng 8, 2019

Phân tích và cảm nhận đoạn trích Ra-ma buộc tội

Đoạn "Ra-ma buộc tội" trích trong khúc ca thứ 6, chương 79 sử thi Ra- ma -ya - na. 78 chương trước kể lại dòng dõi, cuộc đời của Ra-ma, 13 năm đi đày và cuộc chiến tranh đánh thắng quỷ vương Ra-va-na để cứu nàng Xi-ta xinh đẹp. Lúc giải phóng đảo Lan-ka, Ra-ma cùng đoàn quân ca khúc khải hoàn thì hạn đi đày 13 năm gần kết thúc. Bỗng Ra-ma nổi cơn ghen tuông dữ dội. Trong chương 79, Ra-ma dùng những lời lẽ nặng nề, gay gắt buộc tội Xi-ta. Nghi ngờ nàng về sự trong trắng, thúy chung của nàng Xi-ta bước vào giàn lửa của thần An-nhi để chứng minh tất cả... Ra-ma chia tay các chiến hữu. chàng cùng em trai và vợ dùng chiếc thiên xa bay về kinh đô Kô-sa-la..

Chương 79 khắc họa thêm một nét đẹp về con người thiện của đẳng cấp Kơxatrya (vương công, quý tộc, võ sĩ) và đức nghĩa trung hậu, đoan trang của người phụ nữ cao quý.

Ra-ma ghen tuông

Khi Xi-ta đã khiêm nhường đứng trước Ra-ma, chàng nói với vợ một cách mỉa mai: "Hỡi phu nhân cao quý". Quan hệ vợ - chồng hầu như không còn nữa.

Cuộc giao tranh đã kết thúc, theo Ra-ma đó là nghĩa vụ và tài năng đã hoàn thành: "Ta đã gỡ cho nàng khỏi điều vu khống" - nghĩa là nàng bị Ra-va-na bắt cóc chứ không phải đi theo hắn, "cơn giận ta đã hả, và cơn ta đã trả thù kẻ lăng nhục ta". Ra-ma đã sống vì một nguyên lí đạo đức của đẳng cấp Kơxatrya của mình: "kẻ nào bị quân thù lăng nhục mà không đem tài nghệ của mình ra để trả thù, là kẻ tầm thường". Ra-ma cũng dành những lời tốt đẹp nhất để ca ngợi Ha-nu-man và Vi-phi-sa-na - hai chiến hữu tài ba, cao cả của mình.

Trước nhan sắc của Xi-ta: "khuôn mặt bông sen", "những cuộn tóc cuộn sóng" và những giọt lệ của nàng, lòng Ra-ma "đau như cắt", nghĩa là chàng vẫn say đắm Xi-ta. Nhưng danh dự là trên hết, là tất cả, bởi lẽ người anh hùng "sợ tai tiếng". Phải kết thúc chiến tranh là vì nhân phẩm, là để "xóa bò vết ô nhục vì sợ uy tín và danh dự của dòng họ lừng lẫy tiếng tăm của mình".

Ra-ma không thế "nhận nàng về", "không ưng có nàng nữa" vì nàng đã lưu lại tại nhà một kẻ xa lạ, vì Ra-va-na với "đôi mắt tội lỗi... hau háu nhìn khắp người nàng" nghĩa là nàng thất thân với hắn, cho nên Ra-ma phải nghĩ đến "gia đình cao quý" đã sinh ra mình.

Tóm lại, trong đoạn trích Ra ma buộc tội, Ra-ma vẫn còn yêu Xi-ta xinh đẹp nhưng vì danh dự, nhân phẩm của người anh hùng, của dòng họ cao quý mà chàng phải buộc tội Xi-ta, chấm dứt quan hệ vợ chồng với nàng: "Vậy ta nói cho nàng hay, nàng muốn đi đâu thì tùy nàng, ta không ưng có nàng nữa". Ra-ma cảm thấy xấu hố bị xúc phạm; khi trông thấy Xi-ta thì "không chịu nổi", "chẳng khác ánh sáng với người bị đau mắt". Ra-ma ghen tuông buộc tội không phải vì mù quáng mà trái lại, ghen tuông và buộc tội vì nhân phẩm, danh dự, một nét tính cách của con người thiện của đẳng cấp Kơxatrya cao quý trong xã hội Ấn Độ thời đại cổ đại.

Nàng Xi-ta

Xi-ta được miêu tả trong chiều sâu của bi kịch về tình yêu và danh dự.

Nàng đau khổ vì bị oan, bị xúc phạm. Nàng "đau đớn nghẹn thở". Nàng xấu hổ cho số kiếp của nàng", nàng muốn chết ngay "muốn tự chôn vùi cả cái hình hài của mình". Nàng vô cùng đau đớn trước những lời buộc tội của Ra-ma, nàng cảm thấy hình như muôn nghìn mũi tên "xuyên vào trái tim nàng". Nàng khóc, "nước mắt nàng đổ ra như suối".

Xi-ta đoan trang và bình tĩnh bác bỏ mọi lời buộc tội của Ra-ma. Nàng khẳng định: "Trái tim thiếp đây, thuộc về chàng". Chàng chưa hiểu được thiếp qua tình yêu và tâm hồn thiếp. Chàng tự hào về dòng dõi cao quý thì thiếp có kém gì: "đất là mẹ của thiếp". Nếu Ra-ma mỉa mai gọi Xi-ta là "phu nhân cao quý" thì Xi-ta cũng đàng hoàng đáp lại: "Hỡi đức vua" và trách "cớ sao hồi còn thanh niên chàng đã cưới thiếp?".

Xi-ta nhảy vào giàn hỏa thiêu là một cảnh vô cùng bi tráng. Ai đã từng mục kích điệu múa "Nàng Xi-ta"? Ra-ma "khủng khiếp như Thần chết!". Các thánh thần tự hào nhìn Xi-ta nhảy vào lửa "chẳng khác nào một đồ cúng trong lễ tế sinh". Đông đảo phụ nữ thì "kêu khóc thảm thương". Loài ma quỷ như Va-na-ra, Paksaxa cũng "kêu khóc vang trời".

Hình ảnh Xi-ta đàng hoàng tự tin. Nàng "lượn quanh" Ra-ma như để chào vĩnh biệt. Nàng lạy chư thần cao quý thiêng liêng. Nàng cất lời nguyền với thần A-nhi: khẳng định mình bị oan, một phụ nữ trinh tiết bị coi như một kẻ gian dối; tự hào về lòng trong trắng thủy chung trong tình yêu; cúi xin Thần "bảo vệ con", "phù hộ con".

Ta hãy nghe lời nguyện cầu của nàng Xi-ta: "Nếu con trước sau một lòng dạ với Ra-ma thì cúi xin Thần hãy tìm hết cách bảo vệ con. Ra-ma đã coi một phụ nữ trinh tiết như một kẻ gian dối; nhưng nếu con trong trắng xin thần A-nhi phù hộ cho con".

Đọc sử thi Ra-rna-ya-na ta như thấy ngọn lửa sáng rực bừng ánh mặt trời, nàng Xi-ta lộng lẫy kiều diễm múa như bay theo ánh lửa, thần lửa A-nhi minh chứng và cứu sống nàng. Ra-ma dang đôi cánh tay đón Xi-ta, nước mắt chan hòa sung sướng, vừa ân hận, vừa tự hào.

Sự giao tiếp bằng ngôn ngữ theo góc nhìn của khoa học

Trong giao tiếp, ngôn ngữ là công cụ quan trọng số một. Hiểu biết và khéo léo trong việc sử dụng ngôn ngữ phù họp là một trong yếu tố góp phần gây thiện cảm đối với người đối diện, tạo sự thành công trong giao tiếp. Chúng ta có thể tham khảo những ý kiến dưới đây của Giáo sư Nguyễn Văn Lê về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ:

1.1 Lời nói phải đúng vai xã hội, đúng cương vị xã hội của con người.Khi giao tiếp với ai, chúng ta hãy định hướng cho cách giao tiếp ứng xử của mình sao cho phù hợp, không tự phụ kiêu căng mà cũng không tự ti, khúm núm.

1.2 Lòi nói phải phù họp vói trình độ ngưòi nghe. Trình độ quá chênh lệch về ngôn ngữ giữa người nói và người nghe có thể gây khó hiểu hoặc hiểu lầm.

1.3 Bảo đảm nguyên tắc truyền đạt một thông điệp : rõ ràng, rành mạch, không có những từ, nhừng câu thừa, nhưng mặt khác lại cho phép ở một số chỗ nào đó cần có sự lặp lại ít nhiều với mục đích nhấn mạnh, nêu bật những ý cần thiết

1.4 Cách nói cơ giới và cách nói tình thái:
+ Nói cơ giới là nói thẳng, nói vồ mặt. Ví dụ: tôi không có, tôi không cho,tôi bỏ, tôi cắt, anh nói sai.
+ Nói tình thái là nói tế nhị, có tình cảm, làm cho người nghe có thể tiếp thu thỏai mái nội dung câu nói. Ví dự.Tôi e rằng đảnh giả như thế là chưa thỏa đáng. Hai vấn đề đó tưỏng không nên nhập làm một.Nội dung tốt, chỉ tiếc là thái độ hoi gay gắt...
Khoanh tay lại, hứa với cô đi nào! Có muốn được cô khen không?Có muốn được lên lớp không?...
Trái với nói tình thái là nói nặng, nói hù dọa:
Chú ý vào sách! Cô gọi, không đọc tiếp được là cô cho điểm 1 đấy nhé!

1.5 Cách nói chỉ rõ và nói gợi, nói ví :
Nói chỉ rõ sự việc là nói trực diện, như 2 với 2 là 4.Nói gợi là nói đến một dấu hiệu gì đó có liên quan để người nghe tự hiểu. Nói ví là một cách nói gợi,dùng sự so sánh
Ví dụ để phê bình một bài diễn văn nhậm chức sáo rỗng: “ Bài này cho đăng vào một tạp chí văn hóa nghệ thuật thì tuyệt!

1.6 Cách nói triết lý: Cách nói này được dùng để giảm thiểu nồi bất hạnh của người đối diện. Ví dụiCủa đi thay người!

1.7 Nói hiển ngôn và nói hàm ngôn:
Hiển ngôn là lời nói có nghĩa biểu hiện trực tiếp ra ngòai, còn hàm ngôn là lời nói có nghĩa ẩn bên trong, đòi hỏi người nghe phải cố gắng để hiểu, để giải mã câu nói.
Ví dụ:
+ ở trong phòng họp, A nóỶ.Nóng quá!, B nói:ừ, nóng như lửa! Câu nói của A trong trường hợp này này là hiển ngôn, không có hàm ngôn.
+ ở nhà riêng của B, A nór.Nóng quá! B bảo:Cớ chai bia đây! Câu nói của A vừa là hiển ngôn ( trời nóng ) vừa là hàm ngôn ( cho uống gì đi ) Theo Ducrot, hiển ngôn là cái người ta nói ra, còn hàm ngôn là cái người ta muốn mà không nói ra.

1.8 Nói mỉa mai, châm chọc: Theo Paul Guth và Michelle Maurois, tự ái rất nên giữ vì đó là tình cảm của con người có phẩm cách. Vì vậy chúng ta nên tôn trọng cái tự ái của mồi người và tránh không làm tổn thương đến nó bằng những cách nói gợi ý, tế nhị hơn. Đừng nói đùa châm chọc, nhất là đối vói những người quá nhạy cảm.

1.9 Nói gây bệnh cho người khác: Làm gì mà bà xanh xao, tiều tụy đến thế?
Một câu nói đó có thể làm tiêu tan công hiệu của mười hộp thuốc bổ, người nghe có thể chưa bị bệnh nhưng nghe câu nói đó có thể bị ám thị mà bệnh thật.

Thứ Ba, 13 tháng 8, 2019

Bài thơ Bài ca Côn Sơn và tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi là một người quân sư tài ba, một nhà thơ lớn của dân tộc. Ông không trực tiếp đánh giặc nhưng qua ngòi bút của mình ông đã làm lung lay biết bao nhiêu quân xâm lược khiến cho chúng không cần đánh cũng đã thua rồi. Căn bản là ở sự chính nghĩa của ta và ngòi bút sắc sảo không thể chối cãi được của Nguyễn trãi. Tuy nhiên thì chúng ta không chỉ biết đến ông hùng hồn sắc sảo trong bình ngô đại cáo mà chúng ta còn biết đến sự nhẹ nhàng của thiên nhiên trong bài ca Côn Sơn của ông. Có thể nói ông viết thơ ca chính luận cũng hay mà đến thơ ca thiên nhiên cũng hay không kém. Qua bài thơ ấy Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu thiên nhiên của mình.

bai ca con son doctailieu.com

Bài thơ này được viết vào những năm Nguyễn trãi về quê ở ẩn. Những năm tháng ấy ông sống trong cảnh thiên nhiên của côn Sơn. Bài thơ như những nốt nhạc thanh thản của Nguyễn Trãi sau khi cáo quan trường về sống với làng quê thiên nhiên.

Bức tranh thiên nhiên Côn Sơn hiện lên thật đẹp qua cảm nhận của tác giả. Chúng ta như đắm chìm cùng những sắc đẹp nơi đây:

“Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm.
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn. ”

Bức tranh thiên nhiên ấy hiện lên với âm thanh, màu sắc, hình ảnh rất đẹp. Chỉ có trong mấy câu thơ mà tác dụng sử dụng đến ba phép so sánh nhằm nhấn mạnh những vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây. Tiếng suối Côn Sơn không giống như tiếng hát của người con gái trong Cảnh Khuya hồ Chí Minh đã nói:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”

Mà tiếng suối ở đây được ví như tiếng đàn cầm du dương bên tai, trong rừng rêu trên đá khiến cho nhà thơ ngồi trên đó cảm giác giống như là đang ngồi trên đệm êm. Những bóng trúc râm và những cây thông cao vút. Có thể nói nơi đây từ màu sắc xanh của cây rừng đến những tiếng suối rì rầm kia giao hòa với tâm hồn người nghệ sĩ. Dưới sự thoải mái của tâm hồn cũng như thanh thản tươi đẹp của thiên nhiên nhà thơ cất lên những câu thơ như ngâm nga trong khoảng không gian ấy. Thông được so sánh như nêm để cho thấy được ở Côn Sơn những cây thông ấy quả thật rất nhiều. Phải chăng chính sự dày đặc của thông của trúc là nơi che chở tâm hồn nhà thơ tránh khỏi những bụi trần?. Cũng có thể những cây thông kia là những người tri kỉ bầu bạn với nhà thơ. Là một người nghệ sĩ thì thiên nhiên cảnh đẹp luôn làm cho người ta thoải mái và thăng hoa. Chính vì thế mà thiên nhiên chính là những gì mà nhà thơ tìm thấy được khi về quê ở ẩn.

Nhà thơ đang vui say như thế nhưng giọng thơ bỗng nhiên như trùng lại vì những câu thơ tiếp theo nhà thơ bỗng trầm ngâm tự nói với mình, tự nhắc nhớ mình:

“Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?
Muôn chung chín vạc làm gì,
Cơm rau nước lã nên tuỳ phận thôi.
Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,
Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan.
Lại kia trên núi Thú San,
Di, Tề nhịn đói chẳng màng thóc Chu.
Hai đàng khó sánh hiền ngu,
Đều làm cho thỏa được như ý mình.”

Nhà thơ như thể hiện sự đúng đắn của mình khi cáo quan về ở ẩn. Nửa đời làm quan Nguyễn Trãi bị những nịnh thần chèn ép. Chính vì thế mà ông chán ghét cảnh quan trường sự tận trung của ông như thế được coi là đã đủ. Câu hỏi “Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?” như lời tự nhắc nhở của nhà thơ đối với chính bản thân mình. Nhà thơ cũng giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao”. Để về được Côn Sơn một cách thật sự thì Nguyễn Trãi cũng phải trải qua biết bao nhiêu lần được vua mời ra làm quan. Ông tự cảm thấy vừa mừng vì được vua tín nhiệm nhưng cũng vừa sợ trước cảnh quan trường nhiều thủ đoạn bon chen. Ông quả thật là một người “nhân nghĩa quá, trung thực quá, thanh liêm quá…” (Phạm Văn Đồng). Và phải chăng đó chính là bi kịch giằng xé trong Nguyễn Trãi. Ông muốn giúp nước giúp vua nhưng lại không muốn chịu cảnh quan trường bon chen hãm hại lẫn nhau. Điều đó làm cho lương tâm ngay thẳng của ông không thể chấp nhận được. Mà một khi đã không còn thích với chốn quan trường ấy thì nhất quyết là không thể làm được gì. Thế rồi nhà thơ nói về quy luật ở đời. Đồng Trác đời Đông Hán, Nguyên Tải đời Đường kia đều có những công danh, vinh hóa phú quý cả một đời thế nhưng khi chết lại để lại tiếng xấu. còn Bá Di thúc tề đời Ân, Chu thà nhịn đói cũng không lấy thóc. Hai cách sống, hai cách lựa chọn khác nhau ấy đã làm nổi bật lên quan điểm sống của Nguyễn Trãi đã chọn. Đó là thà có ăn uống nước lã đi chăng nữa mà để lại tiếng thơm muôn đời còn hơn là phú quý giàu sang để rồi để một đời ô nhục không bao giờ hết. Chung quy sự “hiền, ngu” ở đời đều là để thỏa ý mình mà thôi.

Và cũng chính từ những suy nghĩ ấy Nguyễn Trãi như thể hiện cuộc đời triết lý nhân sinh của mình:

“Trăm năm trong cuộc nhân sinh,
Người như cây cỏ thân hình nát tan.
Hết ưu lạc đến bi hoan,
Tốt tươi khô héo, tuần hoàn đổi thay.
Núi gò đài các đó đây,
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh.
Sào, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn.”

Nhà thơ ví thân phận của con người chẳng khác nào cây cỏ cả rất dễ nát tan, dễ bị dẫm đạp. Quan điểm triết lý ấy chưa hẳn là bi quan mà nó nói lên cái mong manh của sự sống chết của con người. Nó giống như câu thơ “Sông có khúc, người có lúc”. Thân phận con người không thể lúc nào cũng hiển đạt sung sướng được vì thế cho nên cũng giống như cây cỏ kia con người có lúc giàu sang hạnh phúc nhưng cũng có lúc nghèo khổ ô nhục. Cái sự tốt tươi kia thay đổi tuần hoàn. Nguyễn Trãi viết “Côn Sơn ca” trước bao lâu vụ án Lệ Chi Viên xảy ra ? Tâm trạng thời thế, triết lí về cuộc đời mà Nguyễn Trãi nói đến trong phần hai bài ca là cả một nỗi buồn thấm sâu, tỏa rộng trong tâm hồn nhà thơ. Suy cho cùng thì dẫu có hiển đạt hay nhục nhã thì khi chết đi con người cũng chẳng biết gì nữa.

Đặc biệt là hai câu thơ cuối của tác giả đã thể hiện được sự thiết tha của Nguyễn Trãi:

“Sào, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn. ”

Sài Phủ, Hứa Do đều là những vị quan thanh liêm thời vua Nghiêu Trung Quốc. Cả hai người ấy đều không màng danh lợi mà quyết định sống một cuộc đời ẩn dật chính vì thế mà nhà thơ như học tập những con người như thế. Và bằng tiếng gọi tha thiết nhà thơ như muốn nếu họ tái sinh thì hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn. Bài ca ấy thể hiện nỗi niềm của nhà thơ và phải chăng nhà thơ như muốn tìm những người tri kỉ, những người có thể hiểu được bản thân mình.

Như vậy qua đây ta thấy được những tâm tư tình cảm của Nguyễn Trãi qua bài thơ này. Nhà thơ về quê ở ẩn đắm chìm trong không gian cảnh vật nơi Côn Sơn, thiên nhiên ấy giống như tri kỉ của nhà thơ vậy. Hồn thơ cùng với thiên nhiên như hòa vào làm một. Đặc biệt qua đó ta cũng thấy được những quan điểm suy nghĩ của nhà thơ về sự “hiền, ngu” trong cuộc đời.

Phân tích đoạn trích Cảnh ngày Xuân- Nguyễn Du

Trong thơ xưa, thiên nhiên không chỉ là trung tâm của cái đẹp mà còn là nơi gửi gắm tâm tình của con người. Và trong “Truyện Kiều” bất hủ đại thi hào Nguyễn Du đã dành tới 222 câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên. Trong đó đoạn trích” cảnh ngày xuân” có thể coi là một bức tranh đẹp vào loại bậc nhất của “Truyện Kiều”. Chỉ với 18 câu thơ hàm súc, Nguyễn Du đã gieo vào lòng người đọc sức sống tràn trề của mùa xuân. Đồng thời, giúp ta nhận được sự tinh tế trong bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình của Nguyễn Du.

CẢNH NGÀY XUÂN DOCTAILIEU.COM

Đoạn thơ đã mở ra trước mắt ta một khung cảnh mùa xuân trong tiết thanh minh, qua bốn câu thơ đầu:

” Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Nguyễn Du vẽ lên bức tranh xuân thật đẹp, đặc biệt nhà thơ đã lựa chọn chi tiết tiêu biểu mang nét đặc trưng của ngày xuân để khắc họa bức tranh ấy. Đọc hai câu thơ đầu, ta cảm nhận được cách tính thời gian khá độc đáo, nghệ thuật miêu tả ước lệ bộc lộ rõ đã tái hiện hình ảnh báo hiệu mùa xuân ” chim én”, ” thiều quang” gợi sự ấm áp, dịu dàng, khẳng định mùa xuân đang ở độ đẹp nhất, chín nhất, sung mãn nhất. Qua đó câu thơ thứ hai đã chỉ rõ ngày xuân trôi qua nhanh như con thoi dệt cửa, đã qua tháng giêng, tháng hai, bây giờ là tháng ba, tiết trời trong xanh, những con én rộn ràng chao liệng như nhịp thoi đưa trên bầu trời, gợi ra một không gian, thoáng đãng cao rộng gợi lên nhịp trôi chảy của thời gian và nhịp điệu sôi động của mùa xuân, đồng thời còn tỏ ý tiếc nuối thời gian trôi quá nhanh của Nguyễn Du, để rồi, thiên nhiên đẹp hơn bởi sắc “xanh” của cỏ non, sắc ” trắng” của ” một vài bông hoa” lác đác.

” Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Đây mới thực sự là bức tranh tuyệt mĩ. Tác giả sử dụng biện pháp chấm phá tái hiện bức tranh xuân tươi tắn, sống động gợi liên tưởng về sự sinh sôi nảy mở. Màu xanh của cỏ non gợi sức sống mạnh mẽ, bất diệt, không gian mênh mông, thoáng đạt, trong trẻo. Trên nền xanh ấy có điểm xuyến một vài bông hoa lê trắng. Văn cổ thi Trung Quốc được Nguyễn Du học tập một cách sáng tạo ” Phương thảo niên bích/ Lê chi sổ điểm hoa”. Nếu hai câu thơ Trung Quốc dùng hình ảnh ” phương thảo” ( cỏ thơm) thiên về mùi vị thì Nguyễn Du thay bằng ” cỏ non” thiên về màu sắc: màu xanh nhạt pha với màu vàng chanh tươi thắm hợp với màu xanh lam của nền trời làm thành gam nền cho bức tranh. Trên đó điểm xuyến sắc trắng thanh khiết, tinh khôi của hoa lê tạo thành bức tranh đẹp hài hòa, tươi mát, mới mẻ. Chữ ” trắng” được Nguyễn Du thêm vào và đảo lên trước càng gây ấn tượng mạnh, Chữ ” điểm” làm cho cảnh vật trở nên có hồn, sinh động chứ không tĩnh lại hay gợi lên bàn tay họa sĩ – thi sĩ vẽ lên thơ lên họa như bàn tay tạo hóa điểm tô cảnh xuân tươi khiến cho bức tranh càng trở nên sinh động. Ngòi bút của Nguyễn Du tài hoa, nghệ thuật phối sắc tài tình, giàu chất tạo hình ngôn ngữ biểu cảm, gợi tả thể hiện tâm hồn người tươi vui, phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo hồn nhiên, nhạy cảm tha thiết với vẻ đẹp thiên nhiên. Bốn câu thơ lục bát nhẹ nhàng – một không gian thoáng đãng mà ấm áp của mùa xuân, một màu sắc tinh khôi mãi để lại dấu ấn trong lòng độc giả.

Mùa xuân là mùa khởi đầu trong một năm là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc, tâm hồn con người phơi phới, mùa xuân cũng là mùa có nhiều lễ hội diễn ra nhiều nhất, trong thơ của Nguyễn Du, đó là khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh, tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trảy hội tưng bừng, náo nhiệt:

” Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”

Tác giả đã đưa ta về với lễ nghi phong tục tập quán của người phương Đông, lễ tảo mộ là hướng về cội nguồn, tổ tiên, truyền thống văn hóa tâm linh tri ân với quá khứ. Đi tảo mộ là đi sửa sang, thắp hương để tưởng nhớ người đã khuất, Còn ” hội đạp thanh” là cuộc du xuân là cuộc vui chơi trên đồng cỏ xanh của những trai tài, gái sắc, nam thanh nữ tú, hội đạp thanh còn là cuộc sống hiện tại và có thể tìm đến những sợi tơ hồng cho mai sau. Ở bốn câu thơ tiếp theo, tác giả đã gợi tả không khí lễ hội bằng một loạt các từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm như từ láy ” nô nức”, ” dập dìu” ” sắm sửa” và từ ghép, từ Hán Việt: “tài tử”, ” giai nhân”, “bộ hành”, “ngựa xe” ” gần xa”, ” yến anh” kết hợp với các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh đã khắc họa thật sinh động cảnh đông vui, tưng bừng, náo nhiệt đang diễn ra ở khắp nơi nơi mọi miền đất nước.

Vài nét về tác phẩm Phò giá về kinh

Bài giới thiệu về tác phẩm “ Phò giá về kinh” - tác giả Trần Quang Khải của chúng tôi sẽ cung cấp đến người học thông tin về hoàn cảnh sáng tác, đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Các em hãy tham khảo để có thêm chuẩn bị bài trước khi lên lớp tốt nhất

pho gia ve kinh doctailieu.com

1. Vài nét khái quát về Trần Quang Khải

Trần Quang Khải không những là một danh tướng kiệt xuất mà còn là một nhà thơ đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Tuy số lượng tác phẩm ông viết không nhiều nhưng chúng lại mang những giá trị sâu sắc. Và Phò giá về kinh là một tác phẩm như thế.

2. Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, quân và dân ta đang sống giữa không khí hào hùng, ngây ngất men say của chiến thắng. Vào năm 1284, nước ta bị giặc Nguyên – Mông xâm lược. Vua tôi nhà Trần đã thực hiện kế “ vườn không nhà trống”, chủ động rút quân nhường thành cho địch, sau đó tìm cách đánh địch ở những nơi hiểm yếu.

Giới thiệu về tác phẩm Phò giá về kinh của tác giả Trần Quang Khải
Trần Quang Khải chỉ huy quân đội và phối hợp với Trần Nhật Duật tạo nên chiến công vang dội ở Hàm Tử sau đó là Chương Dương, giải phóng đất nước. Bài thơ “ Phò giá về kinh” được Trần Quang Khải viết khi phò giá  Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về kinh đô Thăng Long trong khúc ca khải hoàn của dân tộc.

3. Đặc sắc về nội dung

Bài thơ ca ngợi chiến thắng hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông lần thứ hai với những trận đánh lẫy lừng ở Hàm Tử và Chương Dương, qua đó tác giả cũng thể hiện niềm tự hào dân tộc, tự hào về những chiến công của quân và dân ta. Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc, niềm tin mãnh liệt vào sự ổn định muôn đời của đất nước.

Với thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt cô đọng, hàm súc cùng giọng điệu sảng khoái, hân hoan, tự hào đã góp phần thể hiện được hào khí chiến thắng và khát vọng về một đất nước thái bình thịnh trị của nhân dân ta dưới triều đại nhà Trần.

Tuy sáng tác không nhiều bài thơ nhưng có thể khẳng định rằng “ Phò giá về kinh” chính là tác phẩm ghi dấu ấn đậm nét nhất của tướng Trần Quang Khải trong lòng bạn đọc.

Thứ Hai, 12 tháng 8, 2019

Định nghĩa và hướng dẫn luyện tập về từ láy

Từ láy là gì ?

Là từ được tạo thành bởi các tiếng giồng nhau về vần, thường từ trước là tiếng gốc và từ sau sẽ láy âm hoặc vần của tiếng gốc.

Có mấy loại từ láy ? Phân loại thành 2 dạng:

– Từ láy bộ phận: các tiếng sẽ có sự giống nhau về vần, phụ âm đầu.

– Từ láy toàn bộ: tiếng sẽ được lặp lại toàn bộ, tuy nhiên cũng có sự thay đổi thanh điệu, phụ âm cuối để mang lại sự hài hòa âm thanh khi nói hoặc viết.

Ví dụ về từ láy

– Từ láy bộ phận: lao xao, rung rinh, lảo đảo, nhấp nháy…

– Từ láy toàn bộ: khăng khăng, xa xa, xanh xanh,…trường hợp đặc biệt thay đổi thanh điệu, phụ âm cuối ví dụ như: dửng dưng, thoang thoảng, thăm thẳm….

Các khái niệm về từ ghép, từ láy, phân loại và một vài ví dụ điển hình giúp các em hiểu hơn về từ loại này. Mọi ý kiến phản hồi hoặc cần bổ sung thông tin có thể bình luận ngay bên dưới nhé. Rất mong được sự đồng góp của giáo viên và học sinh.

Hướng dẫn luyện tập

Giải câu 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 trang 27 SBT Ngữ Văn 7 tập 1. Tìm 5 từ láy có sắc thái nghĩa giảm nhẹ so với tiếng gốc. Đặt câu với mỗi từ đó

1. Bài tập 1, trang 43, SGK.

Trả lời:

Từ láy ở đây hiểu theo quan niệm rộng như đã học ở lớp 6, nghĩa là bao gồm tất cả các từ có sự hoà phối âm thanh (dù có tiếng gốc có nghĩa hay không có tiếng gốc có nghĩa) đều xem là từ láy. Từ láy có tiếng gốc có nghĩa như đẹp đẽ, xinh xắn. Từ láy không có tiếng gốc có nghĩa như tức tưởi, nức nở. Chú ý : ô tô (từ gốc Pháp), thược dược (từ Hán Việt) không phải là từ láy. Đọc phần Ghi nhớ (SGK, trang 42) về sự phân biệt giữa từ láy toàn bộ và từ láy bộ phận. Dựa vào kiến thức đó để tìm các từ láy trong đoạn văn và xếp chúng vào ô thích hợp.

2. Bài tập 2, trang 43, SGK.

Trả lời:

Các từ láy ở đây đều có tiếng gốc có nghĩa. Dựa vào nghĩa của tiếng gốc để tìm tiếng láy thích hợp. Chú ý hiện tượng biến âm, biến thanh điệu ở một số trường hợp. Ví dụ : khác - khang khác.

3. Bài tập 3, trang 43, SGK.

Trả lời:

Các từ trong mỗi nhóm tuy có tiếng gốc giống nhau nhưng có sự khác nhau về cách dùng và sắc thái biểu cảm. Ví dụ xấu xí và xấu xa đều có nghĩa là xấu nhưng xấu xí là sự đánh giá mức độ xấu về mặt hình thức, còn xấu xa là sự đánh giá mức độ xấu về mặt phẩm chất đạo đức. Phân biệt rõ sự khác nhau đó rồi chọn từ phù hợp điền vào chỗ trống ở mỗi câu.

4. Bài tập 4, trang 43, SGK.

Trả lời:

Cần phân biệt rõ nghĩa của các từ này để đặt câu cho đúng :

- nhỏ nhắn : nhỏ và trông cân đối, dễ thương.

- nhỏ nhạt : nhỏ bé, vụn vặt, không đáng chú ý.

- nhỏ nhẻ : (nói năng, ăn uống) thong thả, chậm rãi, từ tốn.

- nhỏ nhen : (đối xử) hẹp hòi, hay chú ý đến cả những việc nhỏ nhặt.

- nhỏ nhoi : nhỏ bé, ít ỏi, gây ấn tượng mỏng manh, yếu ớt.

5. Bài tập 5, trang 43, SGK.

Trả lời:

Hãy xét xem các tiếng trong các từ này có nghĩa hay không, nếu tất cả đều có nghĩa thì đây là những từ ghép chứ không phải là từ láy mặc dù ở mỗi từ đều có sự giống nhau về phụ âm đầu.

6. Bài tập 6*, trang 43, SGK.

Trả lời:

Các tiếng đã cho có nghĩa như sau :

- chiền : chùa.

- nê (tiếng địa phương Nghệ Tĩnh) : trạng thái bụng đầy căng, khó tiêu, gây khó chịu.

- rớt : rơi.

- hành : làm.

Từ gợi ý trên, HS tự rút ra kết luận đó là những từ láy hay từ ghép.

7. Tìm 5 từ láy có sắc thái nghĩa giảm nhẹ so với tiếng gốc. Đặt câu với mỗi từ đó

Trả lời:

Ví dụ về loại từ láy này : trăng trắng có nghĩa mức độ giảm nhẹ hơn trắng (hơi trắng).

8. Thảo luận tổ : Tìm hiểu đặc điểm về cấu tạo và nghĩa của các từ sau đây : bập bùng, dập dềnh, lập loè, mấp mô, nhấp nhô, nhấp nhôm, phập phồng, thập thò, xập xoè.

Trả lời:

Cuộc thảo luận này có thể bàn về một số nội dung sau đây :

a) Quan sát đặc điểm cấu tạo của loại từ láy này : đặc điểm của cách láy (láy phụ âm đầu hay láy phần vần ; phần vần nào là phần vần cố định, có mặt trong tất cả từ láy thuộc loại này). Có thể dùng kí hiệu để mô hình hoá cấu tạo của loại từ láy này. Ví dụ X là phụ âm đầu, âp là phần vần cố định, y là phần vần của tiếng thứ hai.

b) Tìm hiểu ý nghĩa của các từ đã cho. Sau đó khái quát những nét giống nhau trong nghĩa của nhóm từ láy này.

c) Có thể tìm thêm những từ khác có thể quy vào nhóm từ này.

Ví dụ : lấp lóa, khập khiễng...

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2019

Lập dàn ý cho bài văn phân tích truyện cổ tích Sọ Dừa

Sọ Dừa là truyện cổ tích nổi tiếng trong kho tàng truyện cổ tích của Việt Nam. Các em muốn hiểu thêm về giá trị nội dung tư tưởng của truyện cũng như soạn bài Sọ Dừa đủ ý và trôi chảy vậy em cùng đón đọc dàn ý phân tích truyện cổ tích Sọ Dừa đã được người viết xây dựng thành các ý chính rõ ràng, rành mạch dưới đây.

Dàn ý: Phân tích truyện cổ tích Sọ Dừa

1. Mở Bài

Giới thiệu thể loại truyện cổ tích nói chung và truyện Sọ Dừa nói riêng.

2. Thân Bài

-Phân tích phần đầu của câu chuyện

-Phân tích phần thân, diễn biến của câu chuyện cũng như có những nhận xét, đánh giá, bình luận

-Phân tích phần kết, với nghệ thuật chung của toàn câu chuyện

3. Kết Bài

- Đánh giá tổng kết giá trị mà chuyện đã mang lại

- Liên hệ bản thân.

Bài văn mẫu tham khảo:

Truyện cổ tích là một trong các thể loại văn chương dân gian kể về cuộc đời của một số mẫu nhân vật thuộc các loài động vật, thực vật, những người dị dạng kì tài, những kẻ bất hạnh, những người khờ khạo nhằm giải thích tên, đặc tính sinh hoạt, hoặc để khuyên bảo con người hướng thiện. Sọ Dừa thuộc loại mẫu nhân vật dị hình dị dạng nhưng có kì tài. Thông qua cuộc đời của Sọ Dừa, người ta nhận ra quan niệm ở hiền gặp lành, ác giả ác báo của ba cô gái con của phú ông, nhân vật ông chủ giàu có của Sọ Dừa.

Phần đầu câu chuyện, tác giả dân gian giới thiệu tính tình và gia cảnh của cha mẹ Sọ Dừa. Họ là đôi vợ chồng tuổi ngoài năm mươi nghèo, tính tình hiền hậu, đi ở cho một nhà phú ông. Một hôm người vợ vào rừng đống củi, khát nước nhưng không tìm thấy suối, lại thấy sọ dừa đầy nước nằm bên gốc cây nên bà bưng lên uống và rồi có mang. Chuyện mang thai của bà thật kì lạ. Đây là kiểu nhân vật thường xuất hiện trong các nhân vật thần thánh, kì tài làm cả người lớn và con trẻ đều muốn nghe, đều tò mò muốn đọc những trang sách tiếp theo.

Chẳng bao lâu, chồng bà mất. Bà sinh ra một đứa bé không chân không tay, người tròn như một quả dừa, bà buồn lắm toan vứt đi thì đứa bé bảo: "Mẹ ơi, con là người đấy. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp". Lại một chi tiết đặc biệt cậu bé sinh ra không giống người bình thường. Chính chi tiết này đã giải thích tại sao cậu lại mang tên Sọ Dừa. Người mẹ nào không buồn khi đứa con sinh ra mang thân hình dị dạng? Chính bởi vậy, bà muốn vứt bỏ đi cũng là lẽ thường tình. Thế nhưng cậu bé đã van xin mẹ, lời cầu xin chính là mong muốn sự từ tâm, từ đức của người mẹ. Nhờ thế cậu được mẹ nuôi.

Tuy nhiên với cuộc sống nghèo khổ, khi nuôi con mình đến bảy tám năm mà con không khôn lớn thì người mẹ nào chẳng than. Sọ Dừa đã nghe được và cậu đã lên tiếng.

"Gì chứ chăn bò thì con cũng chăn được. Mẹ cứ đến bảo phú ông cho con đến ở chăn bò"

Nghe lời con, bà mẹ đến hỏi phú ông. Phú ông có vẻ ngần ngại. Đó là tâm lí chung của người có của, người giàu thường có tính tham. Phú ông so hơn tính thiệt nhưng vẫn quyết định "Thôi cứ thử xem sao?". Thế là Sọ Dừa đến ở nhà phú ông và lo việc chăn bò. Nguyên nhân này dẫn đến kết quả nọ, câu chuyện cứ thế tiếp diễn. Hình ảnh hằng ngày Sọ Dừa, lăn đi lăn về mới dễ thương làm sao! "Cậu chăn bò rất giỏi" thế mới nói rằng người có tật về hình dạng nhưng thường rất có tài. Con bò nào cũng mập mạp và không mất một con. Điều này khiến phú ông mừng lắm, phú ông đã bắt đầu thay đổi về thái độ của mình với Sọ Dừa.

Ngày mùa đến, tôi tớ ra đồng làm hết nên đó là lí do mà ba cô gái của phú ông phải thay phiên nhau mang cơm ra đồng cho Sọ Dừa. "Hai cô chị khắc nghiệt kiêu kì thường hắt hủi Sọ Dừa, còn cô em út tính tình tử tế, tốt bụng hay thương người nên đối xử với Sọ Dừa rất tốt". Đây là câu văn ngắn gọn miêu tả phần nào tính cách của các cô con gái phú ông.

Một hôm, cô út mang cơm đến chân đồi thì nghe thấy tiếng sáo véo von. Cô rình xem thì thấy một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú đang ngồi thổi sáo. Khi nghe thấy tiếng động, thanh niên đó bỗng biến thành Sọ Dừa.

Người đọc có thể tự hỏi tại sao chỉ có cô em nghe được tiếng sáo mà hai cô chị lại không nghe được. Phải chăng Sọ Dừa đã cảm nhận được tình yêu thương chân thành mà cô út đã dành cho mình? Rồi chàng đến giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ không thể tin được rằng con trai mình sẽ cưới được con gái phú ông nhưng vì thương con, bà đành chấp nhận. Còn phú ông thì cười, vẻ mỉa mai và thách thức: "Ừ được muốn lấy con gái ta hãy về sắp đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mang lên đây!".

Nghèo như mẹ con Sọ Dừa thì làm sao có được những thứ quý giá như vậy. Làm như thế để ông khỏi phải nói lời từ chối và cũng không bị coi là kẻ hám giàu chê nghèo. Cả mẹ của Sọ Dừa cũng bảo gạt phắt chuyện này đi nhưng bà cũng không hiểu sao lại có những đồ lễ đó và cả chục giai nhân vào đúng ngày. Tưởng như đã từ chối được vậy mà sinh lễ đã làm ông hoa cả mắt. Ông lần lượt hỏi ý của từng người con gái, hai cô chị tỏ ý chê bai chỉ có riêng cô em thì tỏ ý bằng lòng. Phú ông đành nhận lễ. Đến đúng ngày cưới, Sọ Dừa tổ chức thật linh đình, nhưng đến giờ rước dâu chẳng thấy Sọ Dừa đâu cả mà chỉ thấy "một chàng trai khôi ngô tuấn tú cùng cô út của phú ông bước ra từ trong phòng rước dâu". Một sự việc bất ngờ như vậy, ai cũng vui mừng chỉ riêng có hai cô chị ghen tức. Mang hình hài của Sọ Dừa, đến khi trở thành người, chàng đã chăm chỉ học tâp, dùi mài kinh sử và đi thi, cuối cùng đỗ Trạng nguyên. Một phần câu chuyện đã coi như kết thúc, người hiền lành chịu bất hạnh cuối cùng đã tìm được hạnh phúc.

Thế nhưng, ở đó vẫn còn có sự ghen tức. Nhân lúc quan trạng đi vắng hai cô chị rủ em út đi chèo thuyền, thực chất là hãm hại em mình. Nhớ lời chồng dặn khi đi cô út mang theo "Một con dao, hai quả trứng và một hòn đá lửa". Khi ra đến giữa biển, hai cô chị đẩy em xuống và con cá kình đã nuốt cô út vào trong bụng nó. Sắn dao mang bên mình, cô út đã giết con cá kình chui ra, dạt vào một hòn đảo và xẻ thịt cá kình ăn sống qua ngày. Hai quả trứng nở ra hai chú gà, một trống, một mái làm bạn với cô. Khi thấy thuyền quan trạng đi qua, gà liền cất tiếng gáy:

"Ò ó o...
Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về"

Sọ Dừa nhận ra là vợ mình, liền ghé thuyền vào đảo, gặp được vợ hiền. Về nhà trạng nguyên mở tiệc chiêu đãi, có cả hai cô chị. Nhưng khi thấy vợ chồng Sọ Dừa bước ra, hai cô chị bỏ nhà đi biệt xứ vì xấu hổ.

Kết thúc câu chuyện đúng ý đồ người đọc và tâm lí người nghe với đạo lí: "Người ở hiền thì gặp lành". Một chuỗi sự kiện diễn ra theo phép nhân quả thuận chiều thời gian. Lối kể chuyện hấp dẫn, lôi cuốn đã khiến người đọc cảm thấy tò mò và càng làm giàu thêm tấm lòng nhân ái của con người.

Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2019

Phân tích sự việc và nhân vật trong Sơn Tinh Thủy Tinh

1.Sự việc trong văn tự sự 

a.
  - Sự việc khởi đầu là Vua hùng kén rể 
  - Sự việc phát triển là Sơn Tinh, Thuỷ Tinh đến cầu hôn, Vua Hùng ra điều kiện chọn rể và Sơn Tinh đến tước được vợ 
  -  Sự việc cao trào là Thuỷ Tinh đến sau, tức giận, dâng nước đánh Sơn Tinh. Hai bên giao chiến hàng tháng trời cuối cùng Thuỷ Tinh thua, rút về 
  - Sự việc kết thúc là hằng năm, Thuỷ Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh nhưng đều thua
  -> Các sự việc và nhân vật trong văn tự sự được thể hiện bằng quan hệ nhân quả đi từ nguyên nhân đến kết quả của hành động.  b.
Nhân vật Địa điểm Thời gian Nguyên nhân Diễn biến Kết quả
Sơn Tinh, Thuỷ Tinh 
Vùng đất Phong Châu Vua Hùng Sự thất bại khi không lấy được Mị Nương. Hằng năm, Thuỷ Tinh dân nước đánh Sơn Tinh Thuỷ Tinh vẫn là người thua trận 

Yếu tố thời gian, địa điểm làm cho truyện thêm phần thuyết phục, không thể xoá bỏ. 
  - Việc giới thiệu về tài năng của Sơn Tinh là cần thiết, khiến cho bạn đọc hiểu được khả năng thần tiên của vị thần này 
- Việc Vua Hùng kén rể là điều kiện để phát triển sự việc truyện nên không thể xoá bỏ 
- Thuỷ Tinh nổi giận là có lý do hợp lý, cùng là thần tiên nhưng Sơn Tinh lại có thể lấy được Mỵ Nương, lại có lòng sĩ diện của bậc nam thần nên nổi giận 
 c.
 - Vua Hùng ngay từ đầu đã có thiện cảm với Sơn Tinh từ ngôn ngữ, tình cảm dành cho chàng, những chiến công của chàng ở đất liền. Hơn thế, Sơn Tinh và Vua Hùng cùng sống ở đất liền nên hoà hợp hơn Sơn Tinh 
  - Sơn Tinh liên tục thằng Thuỷ Tinh cho thấy dụng ý của tác giả, hiện thân của chính những người nông dân vượt qua khó khăn mưa lũ đổ lên đất liền 
  - Thuỷ Tinh không thể thắng Sơn Tinh vì đó là dụng ý của tác giả dân gian, Sơn Tinh đại diện cho nhân dân, Thuỷ Tinh đại diện cho thiên tai tự nhiên 
  - Dụng ý xây dựng hình ảnh Thuỷ Tinh hằng năm đánh Sơn Tinh là tái hiện hiện thực cuộc sống nhân dân hằng năm chống chọi với thiên tai lũ lụt, nên không thể xoá bỏ 

2. Nhân vật trong văn tự sự 

a. 
- Nhân vât chính là Sơn Tinh Thuỷ Tinh đồng thời có vai trò quan trọng trong hình thành cốt truyện 
- Nhân vật được nhắc đến nhiều nhất là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh 
- Nhân vật phụ là Vua Hùng, Mị Nương đồng thời cũng là nhân vật có vị trí đẩy cốt truyện đi đúng hướng, không thể lược bỏ 
b. 
- Nhân vật được gọi tên ( Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, Vua Hùng, …)
- Được giới thiệu tính cách, tài năng, lai lịch ( Thần núi Tản Viên, thần biển hô mưa gọi gió, …… ) 
- Được kể hành động lời nói, ý nghĩ ( Thuỷ Tinh dâng nước đánh Sơn Tinh)
- Được miêu tả chân dung, dáng điệu, trang phục ( thần núi dâng núi, thần nước rút quân …)

Thứ Năm, 8 tháng 8, 2019

Luyện tập tóm tắt tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân

Những mẫu tóm tắt truyện ngắn Làng của Kim Lân dưới đây là tài liệu cần thiết cho các em học sinh nhằm hỗ trợ em trong quá trình tóm tắt tác phẩm. Các em có thể tham khảo để luyện tập tóm tắt văn bản tự sự đồng thời có thêm tài liệu ôn tập cho hiệu quả hơn.

Bài tóm tắt 1


Truyện ngắn "Làng" được Kim Lân viết vào năm 1948, ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đây là thời kỳ chính phủ đang kêu gọi nhân dân "hãy tản cư", những người dân đang nằm ở vùng tam chiến đi lên vùng chiến khu để cùng kháng chiến lâu dài.

Truyện đề cao tình cảm cao đẹp về làng quê Việt Nam, lòng yêu nước, và qua nhân vật ông Hai truyện đã thể hiện một cách chân thực, sâu sắc, cảm động về tinh thần kháng chiến của người nông dân phải dời làng đi tản cư.

Truyện "Làng" xoay quanh câu truyện về ông Hai - một lão nông rất cần cù chất phát, ông rất yêu làng của ông. Vì cuộc kháng chiến chống Pháp, ông Hai phải dời làng tản cư đến sinh sống vùng khác, xa làng ông rất nhớ và yêu làng, luôn theo dõi các tin tức về làng mình. Ông Hai đi đâu cũng khoe về làng Chợ Dầu giàu đẹp luôn sẵn sàng kháng chiến của mình.

Ở nơi tản cư, tin chiến thắng của quân ta đang rầm rồ khiến ai cũng vui vẻ nhưng bổng ông Hai nghe được một tin dữ là dân làng Chợ Dầu trở thành Việt gian theo Tây. Ông vô cùng xấu hổ, cảm thấy cụt hứng, và nhục nhã. Ông suốt ngày quanh quẩn ở nhà, chẳng dám đi đâu, lúc nào cũng buồn chán, mụ chủ nhà khiến ông bế tắc, lo sợ hơn khi mụn muốn đuổi gia đình ông đi không cho ông ở nhờ nhà nữa vì ông là người ở làng Việt gian. Hằng ngày, ông chỉ biết trút bầu tâm sự của mình với đứa con trai nhỏ, đó thật ra chính là ông tự nói với lòng mình: "phải theo kháng chiến, theo cụ Hồ chứ không theo bọn giặc hại nước, còn làng theo giặc thì phải thù làng".

Bài tóm tắt 2


- Ông Hai là người một người nông dân yêu tha thiết yêu làng Chợ Dầu của mình.

- Do yêu cầu của ủy ban kháng chiến, ông Hai phải cùng gia đình tản cư. Xa làng ông nhớ làng da diết.

- Trong những ngày xa quê, ông luôn nhớ đến làng Chợ Dầu và muốn trở về.

- Một hôm, ông nghe tin làng Chợ Dầu của ông làm Việt gian theo Tây. Ông Hai vừa căm uất vừa tủi hổ, chỉ biết tâm sự cùng đứa con thơ.

- Khi cùng đường, ông Hai nhất định không quay về làng vì theo ông "làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù."

- Sau đó, ông được nghe tin cải chính về làng mình rằng làng chợ Dầu vẫn kiên cường đánh Pháp. Ông hồ hởi khoe với mọi người tin này dù nhà ông bị Tây đốt cháy.

Soạn bài xây dựng đoạn văn trong văn bản ngắn nhất trang 34-35

I. Khái Niệm Về Đoạn Văn

Câu 1 (trang 34 sgk Ngữ văn 8 tập 1)
Văn bản gồm 2 ý chính:
+ Khái quát về tác giả Ngô Tất Tố
+ Tổng kết về giá trị nổi bật của tác phẩm tắt đèn

Câu 2 (trang 34 sgk Ngữ văn 8 tập 1)
Nhận diện đoạn văn dựa vào:
+ Chữ đầu tiên của đoạn viết lùi vào đầu dòng và viết hoa, kết đoạn chấm xuống dòng.
+ Mỗi đoạn văn thường gồm nhiều câu văn
+ Về mặt nội dung: Đoạn văn thể hiện trọn vẹn một ý (luận điểm)
+ Hai đoạn văn trong văn bản trên thể hiện tương ứng với hai ý.

Câu 3 (trang 34 sgk Ngữ văn 8 tập 1) 

Đoạn văn là đơn vị trực tiếp cấu thành văn bản, diễn đạt một nội dung nhất định. Hình thức được mở đầu bằng việc lùi đầu dòng, kết thúc chấm và ngắt đoạn. Nội dung việc xây dựng đoạn văn trong văn bản của đoạn văn phù hợp, hoàn chỉnh trọn vẹn ý. Những thành phần, đơn vị khác trong đoạn văn không phải lúc nào cũng có sự hoàn chỉnh về nội dung.

II. Từ Ngữ Và Câu Trong Đoạn Văn

1. Từ ngữ chủ đề và câu chủ đề của đoạn văn
a, Các từ ngữ duy trì ý tứ của toàn đoạn: "Ngô Tất Tố", "Ông", "nhà văn", "tác phẩm chính của ông"
->; Những từ ngữ duy trì ý của đoạn văn là những từ ngữ tạo nên sự thống nhất trong chủ đề của văn bản.

b, Câu "Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô Tất Tố" -> khái quát nội dung chính của đoạn văn, đây là câu then chốt của đoạn.
+ Câu chủ đề trong trường hợp này đứng ở đầu đoạn.
c, -> Câu chủ đề là câu bao chứa trọn vẹn nội dung chính của đoạn văn, câu có hình thức ngắn gọn, đầy đủ thành phần chính, có thể đứng ở đầu hoặc cuối câu.

2. Cách trình bày nội dung đoạn văn
a, Xét về mặt hình thức:
+ Hai văn bản trên giống nhau về cách trình bày nội dung: Ngô Tất Tố và tác phẩm Tắt đèn
- Xét về mặt nội dung:
+ Đoạn văn thứ nhất không có câu chủ đề
+ Đoạn văn thứ hai có câu chủ đề
- Cách diễn đạt:
+ Chủ đề đoạn văn thứ nhất được trình bày theo phép song hành
+ Chủ đề đoạn văn thứ hai được trình bày theo phép diễn dịch
-> Câu chủ đề trong đoạn văn được duy trì bằng những từ ngữ then chốt. Một đoạn văn nhất thiết phải có câu chủ đề. Các câu trong đoạn văn phải nhằm mục đích làm sáng tỏ cho chủ đề đoạn văn.
b, Câu chủ đề "Như vậy, lá cây có màu xanh là do chất diệp lục chứa trong thành phần tế bào" đứng ở cuối đoạn.
+ Đoạn văn trên được trình bày theo lối quy nạp.

III. Luyện Tập

Bài 1 ( trang 35 sgk Ngữ văn 8 tập 1)

Văn bản trên gồm hai đoạn với hai ý chính, mỗi ý được diễn đạt bằng một đoạn văn.
+ Thầy đồ chép văn tế của ông thân sinh
+ Gia chủ trách thầy đồ viết nhầm, thầy cãi liều "chết nhầm"

Câu 2 (trang 34 sgk Ngữ văn 8 tập 1) 

a, Câu chủ đề "Trần Đăng Khoa rất biết yêu thương" – triển khai theo kiểu diễn dịch (từ khái quát đến cụ thể)
b, Không có câu chủ đề, chủ đề của đoạn được duy trì bằng những từ ngữ chủ đề như mưa ngớt, tạnh, trời -> triển khai theo kiểu song hành
c, Không có câu chủ đề, chủ đề được duy trì bằng các từ ngữ chủ đề (Nguyên Hồng, ông, ngòi bút, sáng tác… ->; triển khai theo kiểu song hành

Bài 3 (trang 37 sgk Ngữ văn 8 tập 1) 

Lịch sử ta có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Nhìn về quá khứ chúng ta có quyền tự hào về các vị anh hùng dân tộc như Hai Bà Trưng, Lê Lợi, Quang Trung… Tiếp đến là hai cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, cha ông ta đã đánh đổi cuộc đời xương máu để chúng ta có cuộc sống tự do như ngày nay. Kẻ thù ngoại xâm tuy mỗi thời một khác nhưng xuyên suốt chiều dài lịch sử chính là sự đoàn kết, lòng yêu nước nồng nàn của cả quốc gia, dân tộc.

Bài 4 (trang 37 sgk Ngữ văn 8 tập 1)

Giải thích ý nghĩa câu tục ngữ Thất bại là mẹ thành công
Trong cuộc đời mỗi người, ai cũng có mục đích sống riêng để hướng tới, tới đích là. Để đến được cái đích của sự thành công thực sự không hề dễ dàng. Con đường đến đích chứa muôn vàn những khó khăn, chông gai, thử thách có lúc làm chúng ta vấp ngã, nhưng điều quan trọng phải biết đứng lên sau mỗi thất bại. Thất bại và thành công là hai phạm trù định tính đối lập nhau. Thất bại là ngọn nguồn của thành công, muốn thành công được chắc chắn phải vững lòng khi trải qua nhiều khó khăn, thất bại. Câu tục ngữ muốn khuyên con người phải bền lòng vững chí trước những rào cản, vấp ngã trong cuộc đời để đến với đích thành công.

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2019

Phân tích bức tranh thiên nhiên ở đoạn trích Cảnh ngày xuân

PHÂN TÍCH BỨC TRANH THIÊN NHIÊN Ở 4 CÂU ĐẦU VÀ 6 CÂU CUỐI TRONG ĐOẠN TRÍCH CẢNH NGÀY XUÂN

I. Bốn câu thơ đầu

Bốn câu thơ đầu: Tác giả miêu tả cảnh vật với vẻ đẹp riêng của mùa xuân.

- Hai câu đầu là hình ảnh khái quát về một ngày xuân tươi đẹp với hình ảnh cánh én chao liệng trên bầu trời thanh bình tràn ngập ánh xuân tươi tắn trong sáng. Đồng thời, nhà thơ cũng ngỏ ý ngày xuân qua nhanh quá nhưng “con én đưa thoi”, chín mươi ngày xuân mà nay “đã ngoài sáu mươi”.

phân tích cảnh ngày xuân

- Hai câu thơ tiếp theo mới thực là bức tranh tuyệt mĩ: “Cỏ non xanh tận chân trời - Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Đây chỉ là chân dung của cảnh ngày xuân, chỉ giản đơn có cỏ xanh, hoa trắng mà đủ cảnh, đủ màu, làm hiện lên cả một không gian mùa xuân kháng đạt. Ở đây, Nguyễn Du học tập hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích - Lê chi sổ điểm hoa”, nhưng khi đưa vào bài thơ của mình, tác giả đã rất sáng tạo. Câu thơ Trung Quốc dùng hình ảnh “cỏ thơm” (phương thảo) thiên về mùi vị thì Nguyễn Du thay bằng “cỏ xanh” thiên về màu sắc. Đó là màu xanh nhạt pha với vàng chanh tươi tắn hợp với màu lam trong snág của nền trời buổi chiều xuân làm thành gam nền cho bức tranh, trên đó điểm xuyết những đốm trắng hoa lê. Bức tranh dung hoà những sắc độ lạnh mà bên trong vẫn rạo rực sức sống tươi mới của mùa xuân. Chữ “trắng” đảo lên trước tạo bất ngờ sự mới mẻ, tinh khôi, thanh khiết như kết tinh những tinh hoa của trời đất. Chữ “điểm” gợi bàn tay người hoạ sĩ vẽ nên thơ nên hoa, bàn tay tạo hoá tô điểm cho cảnh xuân tươi, làm bức tranh trở nên có hồn, sống động.

- Hai câu thơ tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Du quả là tuyệt bút! Ngòi bút của Nguyễn Du tài hoa, giàu chất tạo hình ngôn ngữ biểu cảm, gợi tả. Tác giả đã rất thành công trong bút pháp nghệ thuật kết hợp giữa tả và gợi. Qua đó, ta thấy tâm hồn con người tươi vui, phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn, hồn nhiên, nhạy cảm tha thiết với vẻ đẹp thiên nhiên.

I. Sáu câu thơ cuối

Sáu câu thơ cuối: gợi tả khung cảnh chị em Thuý Kiều du xuân trở về. Các em cần lưu ý khi soạn bài Cảnh ngày xuân về sự đối lập giữa hai hình ảnh của 4 câu thơ đầu và 6 câu thơ cuối.

- Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp cầu bắc ngang nhưng đã nhuốm màu tâm trạng.

- Bóng tịch dương đã chênh chếch xế chiều: “Tà tà bóng ngả về đây”, dòng nước uốn quanh. Nhưng đây không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật mà dường như con người cũng chìm trong một cảm giác bâng khuâng khó tả. Cuộc du ngoạn xuân cảnh đã tàn, lễ hội tưng bừng, náo nhiệt đã chấm dứt, tâm hồn con người như cũng chuyển điệu cùng cảnh vật, bước chân người thơ thẩn. Cảnh như nhạt dần, lặng dần, mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, không gian mang dáng dấp nhỏ nhoi, bé hẹp, phảng phất buồn. Tâm trạng con người có cái bâng khuâng xao xuyến về cuộc du xuân đã tàn, có cả linh cảm về việc gặp gỡ nấm mộ Đạm Tiên và chàng thư sinh Kim Trọng “phong tư tài mạo tót vời”.

- Nghệ thuật: sử dụng nhiều từ láy như nao nao, tà tà, thanh thanh không chỉ biểu đạt sức thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người, đặc biệt hai chữ “nao nao” thoáng gợi nên một nét buồn khó hiểu. Hai chữ “thơ thẩn” có sức gợi rất lớn, chị em Kiều ra về trong sự bần thần, nuối tiếc, lặng buồn. “Dan tay” tưởng là vui nhưng thực ra là chia sẻ cái buồn không nói hết. Cảm giá bâng khuâng xao xuyến về một ngày vui xuân đã hé mở một vẻ đẹp tâm hồn thiếu nữ tha thiết với niềm vui cuộc sống, nhạy cảm và sâu lắng. Chính các từ này đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật.
Đoạn thơ còn hay bởi đã sử dụng bút pháp cổ điển: tả cảnh gắn với tả tình, tả cảnh ngụ tình, tình và cảnh tương hợp.

=> Tóm lại:
- Đoạn 4 câu đầu và 6 câu cuối bài “Cảnh ngày xuân”, Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa xuân thật đẹp. Nhà thơ điểm vài chi tiết, tả cảnh để gợi là chính.
- Từ ngữ hình ảnh giàu chất tạo hình.
- Thiên nhiên được miêu tả trong những thời gian, thời điểm khác nhau.


Phân tích nghệ thuật tả nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

DÀN Ý PHÂN TÍCH


1, Mở bài:

   - Giới thiệu về tác phẩm: Truyện Kiều là một áng văn chứa nhiều giá trị, lưu truyền muôn đời.

   - Giới thiệu về nghệ thuật miêu tả nhân vật: nghệ thuật miêu tả nhân vật là một trong những điểm sáng. Qua những đoạn trích được học trong chương trình văn 9 kì 1 như “Chị em Thúy Kiều”, “Cảnh ngày xuân”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã phần nào chứng minh điều đó.

Chị em Thúy Kiều
Chị em Thúy Kiều

2, Thân bài:

a, Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật:

* Thủ pháp ước lệ tượng trưng: Học sinh cần lưu ý về thủ pháp này khi soạn bài Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đây là thủ pháp miêu tả được sử dụng trong văn học Trung đại, lấy vẻ đẹp thiên nhiên tả vẻ đẹp con người. Thiên nhiên là trung tâm, là chuẩn mực của cái đẹp.

   - Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”: Giới thiệu chị em Thúy Kiều: “đầu lòng hai ả tố nga”, “mai cốt cách tuyết tinh thần” – mĩ từ ca ngợi 2 cô gái đẹp người đẹp nết.

   + Tả Thúy Vân: dùng hình ảnh mây, tuyết, hoa, ngọc để nói về vẻ đẹp trong sáng, hiền hậu, đoan trang của Vân.

   + Tả Thúy Kiều: dùng hình ảnh “làn thu thủy, nét xuân sơn” để tả vẻ đẹp đôi mắt của Kiều, ca ngợi tài năng của Kiều “vốn tính trời”, “nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”.

   - Trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”, tác giả dùng hình ảnh hoa để tả Kiều: “lệ hoa mấy hàng”, “Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”, vừa tả người đẹp, vừa thể hiện nỗi tủi nhục khi phải bán mình chuộc cha.

   - Trong đoạn trích Cảnh ngày xuân”: Tả nam thanh nữ tú đi hội đạp thanh là “yến anh”, “tài tử”, “giai nhân”, vẻ đẹp của con người hòa với cảnh sắc thiên nhiên, khiến thiên nhiên thêm sinh động.

⇒ Nhận xét:

   - Về ngôn ngữ: tác giả sử dụng ngôn từ trang trọng, mĩ miều, hình ảnh tươi đẹp, trong sáng.

   - Hình ảnh: lựa chọn những hình ảnh đẹp trong tự nhiên.

   - Qua miêu tả thấy được tuyến nhân vật chính diện, cho thấy tình cảm yêu mến, ngưỡng mộ của tác giả đối với nhân vật.

* Thủ pháp tả thực: tả Mã Giám Sinh.

   - Giới thiệu nhân vật: “Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh/ Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

   - Ngoại hình, tuổi tác: “Quá niên trạc ngoại tứ tuần/ Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”.

   - Cho thấy phẩm chất con người qua một chuỗi hành động:

   + Không có tôn ti trật tự, con người không có giáo dục: “Trước thầy sau tớ lao xao”, “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”.

   + Bản chất chợ búa, con buôn: “Đắn đo cân sắc cân tài” bắt Kiều đàn hát, làm thơ để xem tài, sau khi ưng ý mới “tùy cơ dặt dìu” hỏi giá, tiếp tục “Cò kè bớt một thêm hai”, coi Kiều như một món hàng và trả giá bốn trăm lượng.

⇒ Nhận xét:

   - Tác giả sử dụng ngôn từ tả thực, chỉ dùng 2 câu để tả ngoại hình nhân vật, còn lại tả hành động để cho thấy bản chất con người nhân vật Mã Giám Sinh; sử dụng nhiều tính từ như “lao xao”, “sỗ sàng”, đặc biệt động từ “tót” cho thấy một hành động vô phép tắc, dáng ngồi xấu xí.

   - Qua miêu tả thấy được nhân vật phản diện, thể hiện sự khinh ghét của tác giả


b, Nghệ thuật miêu nội tâm nhân vật: qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

* Thủ pháp tả cảnh ngụ tình

   - Cảnh vật được nhìn qua con mắt của kẻ đang đau buồn như Thúy Kiều tràn ngập 1 màu ảm đạm, u ám, cô liêu: 8 câu thơ cuối bài, cảnh vật được nhìn bằng sự cô đơn, sợ hãi của Kiều, tác giả miêu tả tâm trạng Kiều thông qua những hình ảnh thiên nhiên như thuyền, cánh hoa trôi trên dòng nước, gió thét, sóng gào.

* Thủ pháp độc thoại nội tâm

   - Tác giả tả tâm trạng nhớ thương của Kiều với Kim Trọng, với cha mẹ thông qua 8 câu độc thoại nội tâm của Kiều, từ nhớ thương người yêu đến thương xót cho phẩm hạnh, cho mối tình của hai người; từ lo lắng cho cha mẹ đến xót xa đau buồn nghĩ mình khó quay về gặp cha mẹ nữa.

c, Nhận xét về nghệ thuật miêu tả nhân vật:

   - Dùng cách gián tiếp để miêu tả nhân vật chính diện: dùng thiên nhiên tả vẻ đẹp, dùng thiên nhiên tả nội tâm; giọng thơ nhẹ nhàng, trang trọng, ưu ái, thương xót.

   - Dùng cách trực tiếp để tả nhân vật phản diện: tả trực tiếp ngoại hình, tính cách, hành động, không sử dụng hình ảnh thiên nhiên trong miêu tả; giọng thơ thể hiện thái độ tức giận, khinh ghét.

   - Qua miêu tả dự đoán trước số phận nhân vật.

3, Kết bài:

   - Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du qua 1 vài đoạn trích đã được học: kết hợp miêu tả với thể hiện tình cảm bản thân, sử dụng những thủ pháp nghệ thuật truyền thống xen với cảm hứng nhân đạo mới.

   - Cho thấy tài năng của Nguyễn Du.

BÀI VĂN THAM KHẢO


Nếu như ai đã từng đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, có lẽ đều tâm phục nghệ thuật dẫn truyện tài tình, cách sử dụng ngôn ngữ bác học và bình dân một cách linh hoạt, điêu luyện và đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nhân vật thật độc đáo và gần với đời sống. Nói về nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có ý kiến cho rằng: "Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã rất tài tình trong việc khắc hoạ nhân vật. Nhưng tác giả không chỉ dừng lại ở dáng vẻ bề ngoài, với ông, tả ngoại hình là để giúp cho người đọc hình dung rõ hơn bản chất, tính cách bên trong của nhân vật".

Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật của mình tập trung ở hai dạng chính theo quan điểm truyền thống là : nhân vật phản diện và nhân vật chính diện. Nếu ở nhân vật chính diện, tác giả thường sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, xây dựng nhân theo lối lí tưởng hoá thì ở nhân vật phản diện, tác giả thường sử dụng bút pháp tả thực để khắc hoạ. Dù miêu tả nhân vật ở khía cạnh nào, thì ngòi bút của ông cũng đạt đến trình độ bậc thầy về ngôn ngữ, bởi nhân vật hiện lên rất sống động và chân thực.

Về nhân vật chính diện, khi miêu tả Thuý Vân, Thuý Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ, hình ảnh ảnh dụ tượng trưng, thủ pháp tiểu đối để gợi tả vẻ đẹp chung của hai nàng. Hai nàng có dáng vẻ mảnh mai thanh tao như cây mai "Mai cốt cách", tâm hồn trong trắng, ngây thơ như tuyết "Tuyết tinh thần". Vẻ đẹp của hai nàng đã đạt đến độ tròn trịa, hoàn mĩ "mười phân vẹn mười". Nhưng mỗi người lại mang một nét đẹp riêng không giống nhau là "mỗi người một vẻ". Chân dung Thuý Vân được nhà văn Nguyễn Du miêu tả là một người con gái có vẻ đẹp hài hoà, cân đối :

"Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da."

Hai chữ "trang trọng" nói nên vẻ đẹp cao sang, quý phái khác thường của nàng. Vẻ đẹp trong sáng, quý phái ấy được Nguyễn Du so sánh với những hình tượng đẹp nhất của thiên nhiên như trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết. Nàng có khuôn mặt dầy đặn, tròn trịa như mặt trăng, đôi lông mày sắc nét, miệng cười tươi như hoa, tiếng nói trong như ngọc, làn da trắng mịn hơn tuyết, mái tóc óng ả hơn mây. Nàng mang một vẻ đẹp trong sáng, phúc hậu, hài hoà khiến thiên nhiên phải "nhường", "thua". Qua đó, nhà thơ Nguyễn Du đã khắc hoạ bức chân dung của Thuý Vân gợi lên một tương lai tươi sáng, bình yên, hạnh phúc.

Vẫn với bút pháp ước lệ, tượng trưng tả vẻ đẹp của Thuý Kiều tác giả lại chỉ miêu tả một cách khái quát mà không đi vào chi, khi miêu tiết như Thuý Vân. Nhà thơ chủ yếu đặc tả đôi mắt của nàng. Bởi đôi mắt vốn dĩ được coi là cửa sổ của tâm hồn, qua đôi mắt, những vẻ đẹp về tâm hồn, trí tuệ của Thuý Kiểu được thể hiện một cách đặc biệt.

"Làn thu thuỷ nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh"

Thuý Kiều được miêu tả có đôi mắt long lanh, trong sáng, linh hoạt như nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân khiến vẻ đẹp của nàng khiến thế gian phải "nghiêng nước nghiêng thành". Vẻ đẹp của nàng khiến thiên phải đố kị, hờn ghen. Với cách tả ấy, Nguyễn Du đã vẽ lên bức chân dung của nàng Kiều đẹp như tranh hoạ, vẻ đẹp sắc sảo, rạng rỡ, đài các, kiêu sa nhưng qua đó cũng dự báo về một kiếp hồng nhan truân chuyên, đầy trắc trở, chông gai.

Khi miêu tả chàng Kim Trọng, tác giả lại dùng những đài từ uyên bác để diễn tả xuất thân quyền quý, sự hào hoa phong nhã của nhân vật :

Nguyên người quanh quất đâu xa

Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh

Nền phú hậu bậc tài danh

Văn chương nết đất thông minh tính trời

Phong tư tài mạo tót vời

Vào trong nho nhã ra vào hào hoa

Còn đối với Từ Hải, bậc anh hùng trượng nghĩa, tác giả đã mượn những hình ảnh "Râu hùm, hàm én, mày ngài/ Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", để lột tả những đường nét cường tráng, thần thái uy dũng của một trang hảo hán.

Ngược lại đối với những nhân vật phản diện như Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà, tác giả lại dùng những ngôn từ rất bình dân những đã lột tả bản chất thủ đoạn, ranh ma của nhân vật. Với Mã Giám Sinh đôi dòng giới thiệu :

"Hỏi tên rằng: "Mã Giám Sinh''

Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần.

Quá niên trạc ngoại tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao"

tác giả đã lột tả bản chất đều giả, một con người có cách cư xử vô học. Mặc dù đã "trạc ngoại tứ tuần" nhưng dung mạo lại "nhẵn nhụi, bảnh bao" cho thấy tính cách trải chuốt, ăn diện quá mức của y. Bản chất của một con buôn cũng được thể hiện rõ qua cách "Cò kè bớt một thêm hai" cho thấy y là một kẻ rất thủ đoạn, xảo trá và kệch cỡm. Với nhân vật Sở Khanh, một kẻ "bạc tình nổi tiếng lầu xanh", tác giả dựng lên hình ảnh của một kẻ "Hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng" để đi quyến rũ những "cành phù dung". Khi miêu tả nhân vật Tú Bà, cái hình dáng quá khổ "đẫy đà" qua màu da "nhờn nhợt" đã tố cáo cái nghề buôn bán, kinh doanh trên thân xác của người phụ nữ, khiến người ta mới đọc và hình dung qua một chút thôi cũng đã đủ thấy để ghê tởm. Không những thế mụ còn độc ác, nanh nọc, đanh đá, khi đay nghiến "Phải làm cho biết phép tao" và sấn sổ và đánh Kiều khiến cho người ta phải kinh hãi. Có thể thấy, đối với những nhân vật phản diện, cách sử dụng ngôn từ bình dân tác giả đã khiến nhân vật phải bộc lộ rõ bản chất của mình.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Truyện Kiều không chỉ được tác giả khắc hoạ qua việc miêu tả chân dung bên ngoài, mà thành công hơn cả chính là việc miêu tả thế giới nội tâm nhân vật vô cùng phong phú, tinh tế, làm cho nhân vật có đời sống riêng, có sức sống riêng. Trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" qua việc miêu tả cảnh ngộ cô đơn buồn tủi đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết, tác giả đã khắc hoạ sâu sắc tấm lòng chung thuỷ, hiếu thảo và vị tha của nàng. Qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm, nỗi lòng đau đáu về lương duyên với chàng Kim chẳng khi nào nguôi ngoai :

"Chân trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"

Hay khi miêu tả tính cách của Hoạn Thư, tác giả chẳng ngại ngần mà thể hiện rõ thái độ của mình :

Ở ăn thi nết cũng hay

Nói điều ràng buộc thì tay cũng già

Bước từ trang thơ qua đến đời thực, hệ thống nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du còn rất nhiều, nhưng có lẽ chỉ qua vài nét phác hoạ về nhân vật chính diện và nhân vật phản diện bằng ngôn từ điêu luyện, tài năng của Nguyễn Du đã được nhân loại khẳng định là bậc "đại thi hào". Nhà phê bình Hoài Thanh đã phải rất tâm đắc khi viết nên những lời nhận xét sau "Nguyễn Du đã tái tạo lại một cuộc sống đương thời và sáng tạo ra một thế giới có thật. Trong thế giới ấy có những con người rất sống, rất thật khiến nhiều khi người ta không còn nhớ đó là những con người trong tiểu thuyết".

Bài thơ Truyện Kiều là tác phẩm nổi bật trong chương trình ngữ văn lớp 9, không chỉ có bài làm làm văn Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều, mà thầy cô và học sinh còn có thể tìm hiểu các bài làm văn mẫu khác như Nguồn gốc và giá trị của truyện Kiều, Vẻ đẹp ngôn từ trong truyện Kiều, Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong truyện Kiều, Phân tích nhân vật Thuý Kiều để làm nổi bật giá trị nhân đạo của Truyện Kiều, hay cả các phần Soạn bài Truyện Kiều cùng rất nhiều kiến thức hữu ích khác.

Thứ Ba, 6 tháng 8, 2019

Dàn ý phân tích đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh

Đề : Phân tích tình trạng đất nước ta vào thời vua Lê – chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII qua đoạn trích “Chuyện cũ trong phú chúa Trịnh” (trích “Vũ trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ).



DÀN Ý PHÂN TÍCH CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH

A. Mở bài :

+ Giới thiệu tác phẩm Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ.

+ Đoạn trích : tình trạng đất nước vào thời vua Lê – chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII và thái độ phê phán của tác giả.

B. Thân bài :

1.Tổng :

a. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh : bộ mặt của giới cầm quyền phong kiến thời Lê – Trịnh được kể lại một cách sinh động, chân thực.

b. Ngôn ngữ miêu tả và kể chuyện của tác giả không che giấu thái độ căm ghét những kẻ gây hại cho nhân dân.

2. Phân :

a. Những thú xa hoa của chúa Trịnh Sâm : tô vẽ phô trương vẻ hào nhoáng, thú chơi phong lưu, sính đàn ca nhã nhạc. Ngôn ngữ miêu tả của Phạm Đình Hổ tỉ mỉ chi tiết giúp người đọc hình dung đầy đủ.

b. Bọn cận thần “nhờ gió bẻ măng” : lời kể cụ thể từng vụ việc và thủ đoạn bất lương của bọn tay chân nhà Chúa.

c. Tình cảnh khốn khổ của nhân dân : nhà văn ghi lại câu chuyện có thực kể lại việc xảy ra trong nhà mình.

d. Thái độ bất bình của nhà văn qua giọng kể.

3. Hợp :

a. Nghệ thuật tùy bút đem lại cái nhìn sinh động về bọn người quyền quý cũng như nỗi khổ của nhân dân.

b. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm

C. Kết bài :

Nêu cảm nhận sâu sắc của bản thân.

ĐOẠN VĂN THAM KHẢO


Chuyên cũ trong phủ chúa Trịnh là một trang tùy bút đặc sắc, rút trong Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ.

Tùy hứng mà viết, tùy bút mà viết, cảm hứng dào dạt, dâng trào, cảnh ăn chơi xa hoa của chúa Trịnh Sâm, cảnh bán hàng của bọn nội thần nội thị, cảnh tấu nhạc của bọn nhạc công cung đình tại chùa Trấn Quốc nơi Hồ Tây giữa thế ki XVIII, sự nhũng nhiễu cùa bọn hoạn quan khắp chốn dân gian... đã được tác giả Vũ trung tùy bút chấm phá qua một vài nét, thế mà ta chỉ đọc qua một lần là có thể nhớ mãi.

Chuyện cũ... đã xảy ra vào khoảng năm Giáp Ngọ - Ất Mùi (1774 - 1775), đó là lúc Đàng Ngoài "vô sự", là những năm tháng hoàng kim của Thịnh Vương (Trịnh Sâm); khi mà người ngọc Đặng Thị Huệ được chúa sủng ái trở thành nguyên phi. Trịnh Sâm sống trong xa hoa: thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Chúa ra chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ mỗi tháng ba bốn lần. Cảnh đón tiếp với các thứ nghi lễ thật tưng bừng độc đáo. Có "binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ"Có tổ chức hội chợ, do quan nội thần cải trang "đều bịt khăn, mặc đồ đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán”

Thuyền ngự đi tới đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ... Gác chuông chùa Trấn Quốc trở thành nơi hòa nhạc của bọn nhạc công cung đình. Đình đài, cung điện được xây dựng "liên tục" nhằm thỏa mãn cuộc sống ăn chơi của vua chúa và bọn quan lại thời Lê - Trịnh. Bao nhiêu tiền của, vàng bạc, châu báu, nước mắt mồ hôi của nhân dân bị bòn vét đến kiệt cùng.  Phạn Đình Hổ đã được mắt thấy tai nghe những Chuyện cũ trong phủ chúa Trinh nên cách kể, cách tả của ông rất sống động.

Để được sống trong xa hoa, hưởng lạc đế vương, từ chúa đến quan đều trở thành bọn cướp ngày ra sức hoành hành, trấn lột khắp chốn cùng quê. Chúa thì "sức thu lấy" trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian “không thiếu một thứ gì". Có những cây cảnh "cành lá rườm rà... như cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng" phải dùng đến một cơ binh mới khiêng nổi, từ bên bắc chở qua sông đem về. Trong phù chúa "điểm xuyết" bao núi non bộ trông lạ mắt như "bốn bể  đầu non". Vườn ngự uyển, trong những đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm "ổn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn".Cuộc sống cực kì xa hoa ấy là nguyên nhân cho sự sụp đổ ngai vàng ngày một ngày hai sẽ nổ ra. Đó là năm 1782, Trịnh Sâm qua đời; loạn kiêu binh nổ ra, kinh thành Thăng Long bị đốt phá tan hoang; năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất, cơ nghiệp họ Trịnh tan tành trong nháy mắt! "Cái triệu bất tường" mà Phạm Đình Hổ nghĩ tới thật linh nghiệm.

Bọn hoạn quan trong phủ chúa vừa trắng trợn vừa xảo quyệt, như dân gian đã khinh bỉ chửi vào mặt: "Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan". Chúng dùng thủ đoạn "nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm". Chỉ bằng hai chữ "phụng thủ" biên ngay vào chậu hoa cây cảnh, chim tốt khiếu hay của bất cứ nhà nào là chúng cướp được. Chúng còn lập mưu đêm đến cho tay chân sai lính lẻn vào "lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền". Chúng ngang ngược "phá nhà hủy tường" của dân để khiêng hòn đá hoặc cây cối gì mà chúng cướp được! Đối với nhà giàu thì chúng lập mưu vu cho là "giấu vật cung phụng" để hành hạ, để làm tiền, nhiều người phải "bỏ của ra kêu van chí chết", có gia đình "phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ "

Gia đình tác giả thuộc hàng quan lại, quý tộc thời Lê - Trịnh. Trước sự nhũng nhiễu hoành hành, mẹ Phạm Đình Hổ là bà cung nhân phải sai người nhà chặt cây lê "cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng", hai cây lựu trắng, lựu đỏ "lúc ra quả trông rất đẹp". Chi tiết này, tình tiết này rất sống, rất thực.

Tác giả đã kể lại một chuyện có thật của gia đình mình ở phường Hà Khẩu để vừa tạo nên niềm tin cho người đọc mai hậu, vừa phê phán bộ mặt tham lam, ghê tởm của bọn quan lại thời Lê - Trịnh, vạch trần sự thối tha trong phủ chúa.

Trang tùy bút Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ có giá trị lịch sử sâu sắc, nó đã làm hiện lên cảnh vật và con người, cuộc sống xa hoa ăn chơi của vua chúa, hành động ăn cướp, làm tiền trắng trợn của bọn quan lại trong phủ chúa.


Ngòi bút của Phạm Đình Hổ rất trầm tĩnh và sâu sắc. Mọi cảm xúc, ý nghĩ của ông về nhân tình thế sự được gửi gắm qua những chi tiết, tình tiết, mẩu chuyện rất sống động, rất chọn lọc, đậm đà, nhã thú.